đồng, tiểu đồng và khách vãng lai từng lưu lại. Nhân sinh đã được định rõ
trong sổ Thiên Tào, không ai thoát được vòng luân hồi sinh lão bệnh tử.
Vậy chẳng hay đại nhân đang đề cập tới cái chết nào?”
“À,” Địch Nhân Kiệt đáp, “trong lúc xem xét ký lục tại nha phủ, bản quan
để ý thấy đạo quán đã gửi đến Hán Nguyên bản khai tử của ba thiếu nữ tới
từ nơi khác. Hẳn họ đến đây thọ giới để trở thành các đạo cô.”
Thấy đạo trưởng nhíu đôi mày mỏng, huyện lệnh cười giả lả, “Bản quan
không rõ danh tính hay bối cảnh của ba cô nương ấy, đáng ra ta phải đọc
hết văn thư ký lục trước khi viếng thăm đạo quán. Nhưng tình cờ làm sao,
lại có chuyến viếng thăm đột xuất này…”
Ông bỏ lửng câu, trông chờ phản ứng của đạo trưởng.
Đối phương khẽ gật đầu, “Bần đạo có biết về những cái chết mà đại nhân
nói đến. Phải, hồi năm ngoái có một thiếu nữ họ Lưu đến từ kinh thành rồi
lâm bạo bệnh ở đây. Đích thân Tôn Thiên sư đã chữa trị cho vị cô nương
đó, nhưng…”
Bất chợt đạo trưởng ngưng bặt và nhìn thẳng ra cửa. Địch Nhân Kiệt xoay
người lại, nhưng chỉ thấy hai cánh cửa vẫn đóng im lìm.
“Phường đào kép thật bất kính!” đạo trưởng tức giận thốt lên, “Dám bước
vào mà không thèm gõ cửa!”
Nhận thấy vẻ mặt kinh ngạc của Địch Nhân Kiệt, ông ta mau mắn giải
thích, “Theo thông lệ, một đoàn kịch nhỏ được thuê tói đây, cùng các đạo sĩ
tham gia diễn xướng vào điển lễ của bản quán. Lúc giải lao giữa các màn
diễn, họ sẽ mua vui cho quan khách bằng nhiều màn xiếc kỹ như tung
hứng, nhào lộn. Họ cũng hữu ích đấy, nhưng lại chẳng biết quy củ và luật lệ
của đạo quán là gì!”