313
ra Côn Nôn, Đại Hải. Chúng tuyển mộ người Việt làm
lính, mỗi đội năm mươi người; bọn phủ huyện người Việt
được món lính lệ, lính mã tà. Bắt chước lối xưng hô thời
xưa, tên sĩ quan coi hành chính ở mỗi hạt (sau gọi tỉnh)
xưng là quan bố (bố chánh). Quan bố đầu tiên ở hạt Sài
Gòn là Bô-rết (Boresse) được bổ nhiệm nhận chánh thức từ
7-1-1863, trong thực tế, đã đảm nhận việc hành chánh và
cảnh sát từ 1859 đến 1861, khi quân đội Pháp bị phong
tỏa, chỉ kiểm soát số dân ít oi gần đồn Rạch Bàng. Quy
chế về thị xã Sài Gòn đặt ra từ 8-5-1867, viên xã Tây
(đốc lý) đầu tiên là y sĩ Tuyệt (Ture).
Trong thời gian bị phong tỏa, tên chỉ huy cao cấp
nhất của Sài Gòn là Đa-ri-ét (D’Ariès) đặt văn phòng
trên tàu chiến, đậu gần mé sông. Tình hình tạm ổn, Đô
đốc kiêm Thống đốc Nam Kỳ cho cất dinh thự bằng
cây ván mua từ Singapore, ở vùng đất cao bên đường
nay là Hai Bà Trưng (nền trường Lasan Taberd).
(1)
Bọn
Đô đốc tiếp tục ở ngôi nhà này mãi đến năm 1873 mới
dời qua dinh Nô-rô-đom (sau phá, xây dinh gọi là Độc
Lập). Bên Pháp còn chế độ quân chủ, bởi vậy phòng
tiếp khách của Đô đốc trưng hình vua Nã-phá-luân đệ
tam, hoàng hậu và hoàng tử. Gần mặt tiền của dinh là
“Quảng trường đồng hồ”
với cái đồng hồ để trên cao
15 mét. Từ ngày 30-7-1862, đúng 12 giờ trưa, tàu chiến
1 Vị trí trường Lasan Taberd là dinh của tri phủ Tân Bình đời Tự Đức.
Đọc truyện Hồ Huân Nghiệp do Nguyễn Thông ghi lại, ta biết chắc
Hồ Huân Nghiệp bị giặc đưa về đây để điều tra, linh mục làm thông
ngôn là Legran de La Lirave.