ĐẤT GIA ĐỊNH VÀ BẾN NGHÉ XƯA - Trang 317

317

nhiên tay nghề không đồng đều, gồm luôn lao công
đơn thuần.

Về tiền bạc thông dụng, khi quân đội viễn chinh

Pháp đến thì trên thị trường Đông Nam Á, luôn cả Sài
Gòn, từ lâu đã lưu hành “đồng bạc con cò”, tức đồng
bạc Mê-hi-cô, chạm hình con ó. Giá trị đồng này lên
xuống chút ít so với đồng quan của Pháp. Một đồng con
cò ăn 5 quan 37 trong phạm vi quân đội Pháp, 5 quan
65 tại Singapore ở thị trường tự do, 6 quan 25 ở Hương
Cảng. Một quan tiền của ta (600 đồng) được người Pháp
trị giá ngang với một đồng frăn của chúng, vì vậy, đồng
frăn (âm là phật lăng) gọi là đồng quan. Vì thiếu tiền
lẻ, phải chặt đồng bạc con cò ra làm tư mà xài, mỗi
phần gọi góc tư, hoặc cắc tư. Song song với đồng bạc
con cò, trong dân gian còn xài tiền cũ, loại tiền kẽm;
lúc đầu thực dân công nhận trong việc thâu thuế, lần
hồi lại không xài. Năm 1874 đến 1879, ở Nam Kỳ xài
thêm đồng “đô-la” của Mỹ. Lại xài tiền Hương Cảng,
tiền Ấn Độ. Trong dịch vụ đổi tiền loại này ra loại kia,
có một số Ấn kiều đầu cơ thâu lợi.

Ngân hàng Đông Dương thành lập vào năm 1875,

cho phát hành nhiều loại giấy bạc, phô trương tham
vọng không đáy của thực dân. Trên giấy 20 đồng, có
hình con voi, thằng nài; mặt kia vẽ người đàn bà tượng
trưng châu Âu, tay cầm liềm hái, bên cạnh là con bò
cái, bó lúa mì, dây nho. Giấy 100 đồng nêu hình Vát-cô
đờ Ga-ma (người tìm đường hàng hải qua biển Ấn Độ,
vòng quanh Nam châu Phi). Mặt bên kia, có chữ Hán

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.