79
Không có kinh, vào mùa lụt, đồng bào quen dùng
xuồng nhỏ, thuyền to để vượt cánh đồng vì nước có thể
sâu hơn ba mét, gặp nơi cạn thì tránh né hoặc lội xuống
mà đẩy. Vào mùa hạn, phải tiếp vận từng chặng đường.
Gặp nơi quá cạn thì dùng trâu để kéo loại cộ nhỏ.
Vài con rạch thiên nhiên có thể giúp di chuyển quân
đội, điều mà quân sĩ của Tây Sơn cũng như của Nguyễn
Ánh biết rất rõ. Từ cửa biển Rạch Giá muốn qua sông
Hậu, đã có sông Cái Lớn hoặc sông Cái Bé để trổ ra
rạch Cần Thơ, theo đường Ba Láng rồi Cái Răng, nhưng
khoảng giữa lại rất phức tạp. Mùa mưa, nước tràn vào
trũng, ghe thuyền có thể lướt trên cỏ, trên bông súng
mà đi, giữa biển nước mênh mông, phải tìm vài cây cổ
thụ làm mục tiêu định hướng. Mùa hạn, bùn khô cứng,
không đi được. Từ Long Xuyên có thể đến Rạch Giá
theo con rạch thiên nhiên, qua núi Sập, nhưng tình trạng
cũng như trên.
Năm 1817, theo lịnh triều đình, Nguyễn Văn Thoại
đốc suất đào kinh Thoại Hà (kinh núi Sập) ăn đến cảng
Rạch Giá, công việc không khó vì chỉ đào ở khoảng
giữa, nơi đất bùn, nối ngọn hai con rạch, sau này cho
đào thêm vùng đất thấp, sát chân núi Ba Thê, nối qua
núi Sập. Kinh này đưa nước sông Hậu mùa lũ lụt thoát
mau ra biển, tạo điều kiện cho dân khai khẩn hai bên
bờ kinh, mở đường giao thông chở hàng hóa (vẫn còn
áp dụng trong thời Pháp thuộc).
Công trình quan trọng là kinh Vĩnh Tế, cùng một
chức năng như kinh Thoại Hà là đưa nước sông Hậu mùa