91
Một hậu quả của việc lập địa bộ là triều đình có điều
kiện can thiệp vào tình hình sở hữu ruộng đất ở Nam
Kỳ Lục Tỉnh. Cụ thể là áp đặt chế độ công điền, công
thổ
vào Nam Kỳ. Ngay sau khi đo đạc xong, năm 1836,
triều đình ban hành 14 điều khoản về ruộng đất thi hành
tức khắc ở Nam Kỳ, trong đó nêu sáu điều quy định lấy
ruộng làm công điền, công thổ, thí dụ:
- Những ruộng đất mà địa bạ ghi là do toàn thôn
cày cấy.
- Những ruộng công tư bị bỏ hoang.
Ngoài ra, còn quy định cụ thể một số đất bị sung
làm công điền, như đất còn thừa sau khi xây thành Phiên
An, đất quanh thành Định Tường v.v...
Năm 1837, Minh Mạng ra lịnh: “Ruộng đất các tỉnh
từ Bình Thuận trở vào Nam, từ trước đến giờ chưa được
khám xét, còn chưa có hạng ruộng đất công, phép chia
ruộng chưa được ban cấp. Nay ruộng đất các tỉnh ấy,
khám đạc đã xong, nên phải thi hành một thể”.
Trong 50 năm đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn tích cực
phát triển công điền, thực tế là một sự tước đoạt ruộng
đất của điền chủ và người khai khẩn. Chế độ tư hữu về
ruộng đất trong bước đầu khẩn hoang đã tạo ra sự hứng
thú cho người khai khẩn. Triều đình phong kiến ra lịnh
lấy một phần ruộng tư (ba phần mười diện tích, nếu là
điền chủ lớn) làm công điền, tức là thuộc quyền sở hữu
của nhà vua, của triều đình.
Về nguyên tắc, công điền để cho người không có
ruộng cày cấy, đóng tô cho làng. Nhưng công điền do