ĐẤT GIA ĐỊNH VÀ BẾN NGHÉ XƯA - Trang 92

SƠNNAM

ĐẤT

GIA ĐỊNH

XƯA

làng sử dụng, nghĩa là do hương chức, cường hào nắm;
họ phân phát cho tay chân bộ hạ, không nhứt thiết cho
người không có ruộng.

Chế độ công điền không làm tăng được năng suất

vì cày cấy tạm bợ trên thửa ruộng công mà ba năm sau
làng xã lấy lại thì người canh tác thiếu hứng thú để đầu
tư công sức làm thủy lợi, đắp bờ, cải tạo đất.

Thời xưa dùng nhiều từ cần được xác minh. Đất gồm

hai loại: điền và thổ.

Điền

là đất làm ruộng lúa, chia làm hai loại là sơn

điền

thảo điền, tức là đất núi cao ráo với đất thấp

nhiều cỏ. Sơn điền đóng thuế nhẹ hơn là vì đất xấu, thảo
điền đóng thuế cao hơn vì là đất tốt.

Thổ

là đất trồng hoa màu, vườn tược. Như tang căn

thổ

, đất trồng dâu; viên lang thổ, đất vườn cau, gọi

chung cho vườn cam, quít, dừa, xoài. Lại còn vu đậu
thổ

, đất trồng khoai, đậu, rau cải; thanh trúc thổ, đất

trồng tre; dà điệp thổ, đất trồng lá dừa nước, lợp nhà
(chữ da nhưng quen gọi là ). Thổ trạch là đất nền
nhà, còn gọi là thổ cư.

Khi địa bộ Nam Kỳ Lục Tỉnh đã hoàn chỉnh, mỗi xã

phải lập bản giống nhau: bản thứ nhứt (bản Giáp) gởi về
Bộ Hộ ở Kinh, bản thứ hai (bản Ất) giữ tại phòng quan
Bố Chánh tại tỉnh và bản thứ ba (bản Bính) giữ tại xã.

Trước khi Pháp đến, điền bộ triều Nguyễn đã tu chỉnh

cả thảy bốn lần, gọi là đại tu điền bộ. Ngày trước, địa
bộ và điền bộ, đều là tượng trưng cho chủ quyền lãnh
thổ. Khi hạ được thành trì thì kẻ thắng trận ra lịnh cho

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.