đem năm mươi người con xuống vùng đồng bằng ven biển lập nghiệp, trải
bao gian khó mới dựng nên được nước Văn Lang.
Một viên quan hỏi:
- Ơ! Chẳng lẽ vợ chồng bỏ nhau dễ thế à?
- Hồi ấy có giá thú văn tự gì đâu mà chả dễ. Bây giờ đủ cả giấy nọ tờ
kia còn bỏ nhau xoành xoạch nữa là.
Vua Thánh Tông bảo:
- Có lẽ vậy! Có lẽ vậy. Trẫm giao cho Lê học sĩ cùng ngự sử Trần Chu
Phổ hãy hợp nhau biên chép lại mọi việc chính sự từ trước tới nay để
truyền cho muôn đời mai sau.
Trời tối đen như người bịt mắt, Điệp chạy đã xa làng, xem chừng bọn
tráng đinh nhà lý Thử không đuổi đến nữa, cô ngồi thụp xuống bờ ruộng
bưng mặt khóc. Cô không dám oán trách ai. Cha con Vĩ Thố, Vĩ Thử là
người có công với nước, oán trách người có công với nước là có tội, triều
đình đã bảo thế, nhà vua đã bảo thế. Điệp chỉ còn biết tự trách mình đã sinh
ra trong cảnh đói nghèo và tủi cho cái nhan sắc của mình bây giờ không
biết để cho ai. Bằng lòng lý Thử ư? Người ta bảo hắn có công, không biết
hắn lập công ở đâu nhưng cô chỉ thấy hắn nhiều lần trốn lính. Điệp đã từng
hò hẹn với Mai Văn Lương, hai đứa trẻ con nhà nghèo phải lòng nhau còn
chưa có lời nói cùng cha mẹ. Giặc Thát sang, Mai Văn Lương vào lính, anh
nằm lại bên bờ sông Nguyệt Đức. Điệp chờ đến cái ngày người ta treo vào
giữa túp lều rách nát của mẹ anh tấm đại tự với ba chữ vàng chói Tử vị
quốc. Cô khóc đến cạn nước mắt vì cái chết của cha và cái tin Mai Văn
Lương tử trận. Cô không biết chữ, không hiểu nhiều về ý nghĩa cuộc đời,
chỉ lờ mờ nhận thấy mình sống không còn để làm gì. Giờ đây cô không thể
trở về ngôi nhà của mình nữa. Khóc chán, Điệp đứng dậy dò dẫm bước đi
giữa khoảng đồng không tăm tối mịt mùng. Thế là hết, cha mẹ, tình nhân,