từ mũi đến đốc xong, bác tra lại vào vỏ. Gà gáy dồn. Bác gái nấu cơm đã
chín. Hoa cũng dậy rồi, cô rửa mặt, búi tóc ngược lên đỉnh đầu, buộc thêm
một băng vải giữ cho chặt, mặc quần áo, quấn xà cạp, trông chẳng khác gì
một chàng trai tuấn tú. Bác Hiệp bảo con:
- Bây giờ trời sắp sáng, con đi đi thì vừa. Đây là thanh kiếm năm xưa
thầy dùng đánh giặc, nó là vật quý nhất trong nhà, nay thầy cho con, mong
con hãy hiểu ý thầy.
Đoàn Thị Hoa đưa hai tay nhận thanh kiếm. Bỗng cô ôm lấy người
cha, oà khóc như đứa trẻ, không nói lời nào. Tuy vậy bác Hiệp hiểu hết nỗi
lòng con gái. Bác gỡ tay Hoa ra, bảo:
- Thôi đi đi kẻo trời sắp sáng.
Bác Hiệp gái khoác gói đồ cùng nắm cơm lên vai con. Bác đưa Hoa ra
đến tận cổng làng. Phút chia tay với mẹ, Hoa nín lặng, cô không dám nói
câu gì vì sợ cất lời lên sẽ không cầm được nước mắt. Cô không muốn mẹ
cô buồn. Bác Hiệp gái cũng hiểu như vậy, bảo con gái:
- Đi đi con.
Hoa nhìn vào mắt mẹ lần cuối rồi buông tay chạy vút lên con đê đầu
làng, thanh kiếm đập nhè nhẹ trên lưng. Trông cô như một thiếu niên hiệp
khách lãng du trên con đường vạn dặm. Mẹ cô đứng im nhìn hút theo cho
đến khi mặt trời nhuộm những đám mây phía Đông thành một màu hồng
rực.
Đây nói chuyện năm trước (đầu năm 1283) Tĩnh Quốc vương Trần
Quốc Khang nhận chỉ đem quân đi cứu Chiêm Thành, dặn con trai thứ là
Chương Hiến hầu Trần Kiện mang một nghìn quân, nói phao lên là ba vạn,
chương cờ hiệu Tĩnh Quốc đại vương, cứ mỗi ngày đi ba mươi dặm lại
đóng trại nghỉ, khi nào đến ái châu thì dừng lại giữ thành. Còn mình đi