của nó, chưa bao giờ cả cho đến những ngày cuối cùng này. Tại bên cạnh
giường của đứa con hấp hối của ông, ông đã biết, tất cả đều quá muộn, cái
tình yêu thực sự duy nhất của ông; rồi ông đã quên, và nhô lên bên trên,
chính mình. Và nay điều ấy sẽ là kinh nghiệm của ông, cái kho tàng nhỏ bé
khốn khổ của ông, bao lâu mà ông còn sống.
Cái gì còn lại cho ông thì đó là nghệ thuật của ông, cái mà chưa bao giờ
ông cảm thấy chắc chắn như ông cảm thấy hiện giờ. Cái đó nó vẫn còn là
nguồn an ủi của kẻ ở bên lề xã hội, kẻ mà nó không được trao tặng để bắt
lấy cái ly của đời sống và uống cạn nó đi; nó vẫn là một điều xa lạ, lạnh
lùng và dẫu rằng không cưỡng lại được lòng đam mê để nhìn thấy nó, để
quan sát nó và để dự phần với niềm hãnh diện kín đáo trong việc sáng tạo.
Đấy là cặn bã và giá trị của cái đời sống không thành công của ông, cái nỗi
cô đơn không nao núng và niềm vui lạnh lùng của nghệ thuật, và để đi theo
ngôi sao đó mà không lẩn tránh cái định mệnh của ông từ hiện giờ.
Ông hít thở sâu vào cái không khí ẩm ướt có mùi cay đắng của trang viên
và ở mỗi bước đi đó có vẻ như ông đang đẩy xô quá khứ đi cũng như một
người đã tới bờ hắn bèn đẩy chiếc thuyền con đi, vì bây giờ vô dụng rồi. Sự
dò xét của ông và sự minh trí của ông không phải là cam phận; nó có đầy sự
thách thức và đam mê liều lĩnh, ông đã hướng tới một đời sống mới mẻ, mà
đời sống ấy ông đã nhất quyết, sẽ không còn là một sự sờ soạng hoặc lần
mò trong bóng tối nhưng đúng hơn là một cuộc leo dốc đứng, đầy quả cảm.
Về sau và có lẽ một cách đau đớn hơn hết cả mọi người, ông đã chia tay với
ánh rạng đông dịu dàng của tuổi trẻ. Giờ đây ông đứng đó khốn khổ và quá
muộn màng giữa thanh thiên bạch nhật, và về điều đó một lần nữa ông đã
có ý định là chẳng bao giờ đánh mất cái giờ khắc quý giá ấy.