những bữa ăn ít vội vàng nhất, là những khoảnh khắc dịu dàng nhất trong tuần, giúp chúng
tôi xích lại gần nhau hơn.
Một năm nữa trôi qua và tôi cân nhắc đến việc nghỉ làm một năm. Tôi mong muốn được
học Do Thái giáo toàn thời gian và tìm cách kết hợp những điều tôi đã học vào công việc.
Đồng nghiệp của tôi, vốn là chuyên gia tâm thần học rất yêu nghề, tỏ vẻ trách cứ: “Đó
không phải là công việc,” anh ta nói: “đó là nghề nghiệp. Chị cứ thử nghĩ xem rời bỏ bệnh
nhân như thế thì có ý nghĩa gì.”
Lời khuyên của Rabbi Daniel rất cứng rắn: “Hãy đọc Chương 6 về nhà tiên tri Isaiah
khi ngài nhận được lời tiên tri,” thầy thôi thúc tôi trong một lá thư dài. “Về cơ bản, quyền
quyết định là của con. Thầy chưa bao giờ chắc chắn về các vấn đề liên quan đến nguyên tắc,
nhưng thầy biết chắc hai điều: nếu con tìm hiểu sâu về Do Thái giáo, con sẽ có cơ hội
phụng sự cộng đồng người Do Thái và phụng sự Chúa.” Bức thư đó có tác động lớn đối với
tôi. Dù vẫn mơ hồ về lời dự đoán của thầy Daniel rằng tôi sẽ phụng sự cộng đồng Do Thái
giáo, nhưng lời khuyên của thầy trao cho tôi dũng khí để thôi việc.
Mặc dù thầy Daniel là rabbi tân tiến, nhưng thầy cũng khuyên tôi nên tìm hiểu thêm về
những người Do Thái chính thống. Cả đời họ đã quen với bản văn Kinh Thánh và những
điều răn, tạo cho họ khả năng giúp người khác làm quen với tư tưởng Do Thái bằng phương
thức vô cùng gần gũi, không mang tính học thuật. Tôi mặc frum (lễ phục), ống tay áo dài
kín khuỷu tay, váy dài, đội mũ, và tôi học các bản văn khó, các quy tắc tạo ra ngôi nhà Do
Thái với các giáo viên người Do Thái chính thống. Ban đầu, tôi dành phần lớn thời gian học
hỏi các Hassid
và ở họ có sự kết hợp của những đặc điểm khiến tôi ấn tượng: niềm hân
hoan trong đức tin và trí tuệ rực sáng. Nhưng khi tôi đến nhà họ dự bữa tối Shabbat, tôi
thấy khác lắm. Chỉ nam giới tham gia tranh luận sôi nổi tại bàn ăn - những bà vợ và con gái
lui vào một nơi kín đáo. Tôi không thể tạo dựng một ngôi nhà như thế này, và tôi cũng sẽ
không hạ thấp phẩm giá con gái mình như thế. Nhưng tôi vẫn tiếp tục học hỏi những người
đàn ông, phụ nữ ngoan đạo này, đồng thời cũng học các giáo viên khác biết truyền cảm
hứng đến từ những nhánh Do Thái giáo.
Trong năm đó, tôi tiếp thu được rất ít kiến thức về Do Thái giáo, nhất là khi kiến thức đó
liên quan đến việc nuôi dạy con. Tôi phát hiện ra rất nhiều cuốn sách cha mẹ của người Do
Thái, do các rabbi và giáo viên viết ra. Những cuốn sách đó nêu ra các vấn đề mới mẻ và
hấp dẫn tôi: cách giải quyết “vấn đề nan giải tháng 12” (giúp trẻ em Do Thái cưỡng lại sự
cám dỗ của Lễ Giáng sinh mà không khiến Hanukkah trở thành kì nghỉ dài vì kì nghỉ này
không hướng tới mục đích đó), cách trang trí và hưởng thụ niềm vui thích một chiếc lều
tạm, cách trả lời câu hỏi của trẻ về Chúa. Được viết ra nhằm giúp cha mẹ hướng dẫn trẻ xây
dựng cá tính Do Thái tích cực trong nền văn hóa đương đại, những cuốn sách này tồn tại
song song với xã hội trần tục.
Gần nhà tôi có ba hoặc bốn cửa hàng sách Do Thái của người Do Thái chính thống. Tôi
rảo bước vào và thấy những chiếc bàn đầy kín các chồng sách nuôi dạy con mà tôi chưa
từng thấy. Tôi vô cùng hồi hộp khi đọc những cuốn sách này. Sách có những hình ảnh sống