hơn một chút, và sự tập trung căng thẳng biểu cảm trên gương mặt
anh. Brooke đắm mình vào trải nghiệm này đến mức không nhận
thấy các bạn mình đã tiếp tục tán gẫu khi những bình bia miễn phí
được đưa đến bàn họ. Họ rót và uống và lại rót tiếp, nhưng Brooke
không thể rời mắt khỏi anh chàng tóc rối bên chiếc dương cầm. Hai
mươi phút sau, khi anh ra khỏi quán bar, cúi chào những khán giả
đang tán thưởng mình với vẻ mặt chỉ hơi thoáng bóng nụ cười, thì
quả thật Brooke đã nghĩ tới việc đi theo anh. Cô chưa bao giờ làm
điều gì tương tự trong đời, nhưng cô có cảm giác đó là điều nên là
“Tớ có nên đến làm quen không nhỉ?” cô hỏi mọi người cùng
bàn, nhoài người về phía trước đủ xa để cắt ngang câu chuyện của
họ.
“Với ai cơ?” Nola hỏi.
“Với Julian ấy!” Thật bực hết chỗ nói. Chẳng lẽ không ai nhận
thấy anh ấy đã ra khỏi quán và sắp vĩnh viễn biến mất ư?
“Julian, gã chơi dương cầm ấy hả?” Benny hỏi.
Nola đảo mắt và hớp một ngụm bia đầy. “Thế cậu định làm gì
đây? Đuổi theo anh ta và bảo anh ta rằng cậu có thể phớt lờ khả
năng vô gia cư tiềm ẩn của anh ta miễn sao anh ta làm tình với cậu
thật say đắm trên chiếc dương cầm của anh ta ư?”
Benny bắt đầu hát. “Ô đã chín giờ tối thứ Bảy… Chủ nhật, đám
đông thường lệ lại kéo đến
(3)
…”
(3)
Nhại lời bài hát Piano Man rất nổi tiếng của Billy Joel.
“Có một gã nhếch nhác ngồi bên cạnh tôi, tình tự với cô bạn
Brooke của chúng ta,” Nola vừa hát nốt vừa cười lớn. Họ cụng
những vại bia.