cũng lên tàu điện ngầm rồi sau đó đi bộ đến cửa trước quán Nick’s
Bar and Lounge.
Ngồi xuống sau khi tìm được một trong những chỗ cuối cùng
tít nơi góc hậu, cô thấy cũng bõ công. Quán bar này cũng giống như
cả trăm quán tương tự dàn hàng trên ộ 2, nhưng đám đông ở đây
hỗn tạp lạ thường. Thay vì đám sinh viên vừa mới tốt nghiệp như
thường lệ ở Khu Thượng Đông - những kẻ thích nốc bia sau khi nới
lỏng chiếc cà vạt hiệu Brookes Brothers mới tinh - đám đông tối nay
có vẻ là một sự pha trộn kỳ quặc giữa những sinh viên Đại học New
York đã phải lặn lội cả quãng đường dài tới khu phố trên với các đôi
ở lứa tuổi ba mươi tay trong tay nhắp rượu martini và những đám
hippi đi giày Converse hiếm khi thấy tụ tập đông như vậy bên ngoài
East Village hoặc Brooklyn. Quán Nick nhanh chóng chật như nêm,
ghế nào cũng có người và chắc phải đến năm sáu chục người nữa
đứng đằng sau dãy bàn, tất cả đến đây chỉ vì một lý do duy nhất.
Brooke bị sốc khi nhận thấy cái cảm giác mà cô đã trải nghiệm khi
nghe Julian đàn hát một tháng trước ở Rue B lúc này chẳng còn là
độc nhất vô nhị. Nhiều người biết đến anh và sẵn sàng đi từ khắp
mọi ngả trong thành phố tới xem anh biểu diễn.
Khi Julian ngồi vào ghế của anh bên cạnh chiếc dương cầm và
bắt đầu thử vài nốt để chắc chắn tiếng đàn chuẩn, đám đông nhao
nhao vì háo hức. Khi anh bắt đầu chơi, cả phòng dường như lắng
đọng vào nhịp điệu, một vài người đung đưa nhè nhẹ, số khác thì
nhắm mắt lại, và tất cả nhoài người về phía sân khấu. Brooke, người
chưa từng biết thế nào là đắm chìm trong âm nhạc, cảm thấy toàn
thân mình thư thái. Cho dù đó là rượu vang đỏ hay tiếng ngân đầy
mê đắm hoặc cảm giác lạ lẫm khi ở trong một đám đông rặt những
người xa lạ thì Brooke cũng đâm ra nghiện mất rồi.
Suốt những ngày hè còn lại, tối thứ Ba nào cô cũng đến quán
Nick. Cô chẳng bao giờ mời ai khác đi cùng; khi các bạn cùng phòng
ép cô phải khai xem tuần nào cô cũng đi đâu thì cô bịa ra một câu