đúc trong một tối thứ Sáu - xét cho cùng thì, có thành phố đáng kính
nào mà lại có phố phường vắng tanh vắng ngắt và đầy chỗ đậu xe
trống thế này không? Cái chỗ chết tiệt nào mà những người lái xe
khác lại lịch sự dở hơi thế này, mà ai cũng đậu nguyên ở chỗ đèn đỏ
cả mười phút, rốiít vẫy nhường nhau qua trước như thế chứ? Ông
thì chả thích nơi nào như thế cả là là cái chắc. Những thành phố đích
thực phải có tắc đường, bụi bẩn, đám đông, tuyết, còi tầm, ổ voi ổ gà
và những thứ làm ta khốn khổ đi kèm chứ, ông cả quyết với giọng
huênh hoang lố bịch nhất mà Brooke từng nghe thấy. Lúc ba người
bọn họ bước vào bên trong, có cảm giác như họ đã ở ngoài đường
suốt tối vậy.
Cô như trút được gánh nặng khi thấy cha mẹ Trent đang đứng
ngay ở cửa. Brooke băn khoăn không hiểu họ nghĩ gì về chiếc mũ
kiểu quý bà đua ngựa của mẹ chồng cô. Cha Trent và cha Julian là
hai anh em ruột, cực kỳ thân nhau mặc dù tuổi hai người cách nhau
rất xa, và cả bốn người bọn họ lập tức tiến về phía quầy bar ở phía
đằng kia phòng. Brooke cáo lỗi đi gọi điện cho Julian. Cô nhận thấy
những vẻ mặt nhẹ nhõm hẳn đi: những phụ nữ còn gọi điện cho
chồng để chào hỏi thì đời nào lại quay ngoắt một trăm tám mươi độ
mà bỏ chồng cho được, phải vậy không?
Cô nhìn lướt khắp phòng để tìm Trent và Fern nhưng không
thấy. Ngoài trời khoảng 10 độ C, nhưng so với tháng Hai ở New
York thì đây đích thực là thời tiết nhiệt đới, và cô thậm chí chẳng
buồn cởi cúc áo khoác ra. Cô chắc chắn Julian sẽ không bắt máy - ở
Anh lúc bấy giờ là nửa đêm và ắt hẳn anh vừa mới xong phần biểu
diễn của mình – dù vậy cô vẫn bấm số gọi và ngạc nhiên khi nghe
thấy giọng anh.
“Chào em! Anh thật mừng vì em đã gọi,” anh nói, giọng có vẻ
sốc không kém gì cô. Không có tiếng ồn ở đầu dây đằng ấy. Cô có
thể nghe thấy sự hào hứng trong giọng nói của anh. “Anh vừa mới
nghĩ đến em.”