nữa, tôi vui mừng vì chị ở lại cũng vì ích kỷ nữa. Các bạn của tôi đều
mến chị cả.”
Cô biết rằng Fern chỉ nói thế để làm cho cô cảm thấy dễ chịu -
xét cho cùng, cô khó mà có cơ hội chuyện trò với ai cả tối, mặc dù
bạn bè của Trent và Fern đều có vẻ dễ mến - nhưng ai mà quan tâm
kia chứ? Câu nói đó có tác dụng. Cô cảm thấy dễ chịu. Dễ chịu đủ
mức để uống một chầu tequila với Trent “để tôn vinh Julian”, và vẫn
còn dễ chịu đủ mức để cạn ly vodka chanh với Fern và các chị em
trong hội nữ sinh đại học của cô (những cô gái mà thật bất ngờ, có
thể uống khiếp hơn bất kỳ người phụ nữ nào mà cô từng gặp). Cô
vẫn cảm thấy dễ chịu khi vào khoảng nửa đêm những ánh đèn tắt
lịm và ai đó tìm ra cách nối một chiếc iPhone với hệ thống âm thanh
nổi của nhà hàng, và cảm thấy dễ chịu thêm suốt hai giờ đồng hồ
nữa uống, nhảy, và - nếu cô hoàn toàn thành thật - vui vẻ một chút,
đong đưa kiểu cổ điển với một trong những bác sĩ nội trú bạn của
Trent. Hoàn toàn trong sáng, dĩ nhiên rồi, nhưng cô đã quên tiệt cái
cảm giác khi có một chàng trai cực lém lảu nhằm vào cô suốt đêm
đó, lấy rượu cho cô uống và cố gắng pha trò cho cô cười; cả điều đó
nữa cũng thật là dễ chịu.
Cái cảm giác không dễ chịu chút nào, tự nhiên thôi, là việc bị
cơm chênh choáng hành cho đến khổ vào sáng hôm sau. Dù chỉ trở
về phòng khách sạn khi đã gần ba giờ sáng, cô vẫn thức dậy lúc bảy
giờ và nhìn trân trân lên trần nhà, biết rằng mình chắc sắp nôn và
băn khoăn không hiểu còn phải chịu đựng thêm bao lâu nữa thì mới
nôn được. Nửa tiếng sau, cô bò trên nền nhà tắm, thở hào hên và cầu
mong sao ông bà Alter đừng có gõ cửa. May thay, cô đã trườn lại
được vào chăn và ngủ thiếp đi đến tận chín giờ.
Bất chấp cơn đau đầu như búa bổ và dư vị kinh tởm trong
miệng, Brooke mỉm cười khi cô mở mắt ra kiểm tra điện thoại di
động. Julian đã gọi và nhắn tin đến năm sáu lần, liên tục hỏi xem cô
ở đâu và vì sao cô không bắt máy - anh đang trên đường ra sân bay