nhanh cánh cửa và khóa lại từ bên trong.
Sao anh ấy chậm thế? Có lẽ đang ngủ chăng? Hay là dạy rồi nhưng không
đủ sức xuống giường ra mở cửa? Hay đang đứng nhìn ra ngoài qua mắt
cửa?
- Không có ai ở trong ấy đâu... - Bà y tá trưởng nói, giọng dịu dàng.
Nôrikô sực tỉnh, đưa chìa khóa cho bà.
Cô đã khát khao được cầm cái chìa khóa này biết chừng nào! Kể cho đến
tối hôm nay cô vẫn ước mơ điều đó. Giá được như vậy, cô có thể đến đây
gặp Naôê bất cứ lúc nào cô muốn. Nếu anh không có nhà, cô sẽ dọn dẹp,
nấu ăn và đợi anh về. Đến khi anh về, cô có thể nấp vào một nơi và xồ ra
dọa...
Nhưng rồi rốt cuộc Naôê vẫn không trao chìa khóa cho cô. Thật ra thì cô
cũng không hỏi xin. Vả lại dù cô có hỏi thì anh ấy cũng chẳng đưa nào. Và
giờ đây, khi anh đã không còn nữa, cái chìa khóa lại nằm gọn trong lòng
bàn tay cô. Mãi đến sau khi chết anh mới chịu cởi mở tâm hồn cho cô.
Nôrikô thật trọng bước vào nhà, cố đi thật khẽ để khỏi gây tiếng động.
Gian đệm, và sau bức màn là gian bếp. Giữa gian bếp đặt một cái bàn ăn,
xung quanh bày mấy cái ghế. Trên cái bể rửa chén đĩa bằng kim loại có một
chai sakê bọc giấy, bên cạnh là một cái ly không - hình như Naôê đã uống
rượu trước khi lên đường. Nôrikô phải tự kiềm chế lắm mới không để cái
chai lại cho đúng chỗ.
Bên kia bức màn là phòng ở. Cái giường ở bên trái, bên cạnh cửa ra ban
công là bàn viết. Cái lò kôtatsu. Trên giường, chăn đệm đều được xếp đặt
ngăn nắp.
- Bỏ trống... - Một cái gì hoàn toàn tự nhiên, nhưng lại làm cho Nôrikô kinh
ngạc.
- Đây rồi, bức thư tuyệt mệnh. - Bà y tá trưởng trông thấy cái phong bì
trắng đặt trên lò kôtatsu.
Trên phong bì có đề bằng bút lông: "Kính gửi tiểu thư Nôrikô Samura".
Trong một phút Nôrikô thẫn thờ nhìn cái phong bì mà không trông thấy nó,
rồi sợ sệt cầm nó lên như một vật gì rất đáng sợ.
Trong phong bì có xếp mấy tờ giấy trắng viết chữ dày đặc.