phạm. Anh muốn gì vậy? Anh nghĩ gì vậy? Có ai lấy làm lạ không? Đột
nhiên, anh tụ tập mọi người, rồi anh xuất hiện, đĩnh đạc, với những lời xưa
cũ, cứ như lời Chúa tự trên trời vậy… nhưng ở đây, ai cũng biết rồi. Chúng
tôi đều biết cả, anh bạn ạ.
Tôi nói thong thả, với vẻ trịnh trọng nực cười, mỗi lời đều có vẻ tự tin,
như đã cần nhắc vô cùng kỹ lưỡng. Thực ra, dĩ nhiên tôi không nghĩ chín
chắn được gì. Tôi không phút nào tin “có thể giải quyết được” điều gì ở đây,
tôi không ao ước gục vào Lajos, và cũng không muốn tranh cãi. Tôi muốn gì
đây? Tôi muốn thờ ơ với mọi thứ. Anh đang ở đây, anh đã đến đây, sự kiện
này là một cái gì đó đặc biệt tất yếu của cuộc đời, anh đang muốn một cái gì
đó, đang nghĩ nát óc để đạt được nó, nhưng rồi anh cũng sẽ ra đi, và chúng
tôi sẽ lại sống như những ngày xưa cũ. Quyền lực của anh với tôi đã chấm
dứt! – tôi cứ nghĩ như vậy, và bình thản nhìn anh một cách thân thiện.
Nhưng đồng thời, tôi lại nhận ra trong lòng mình đang trỗi dậy ngay từ lúc
khởi đầu cuộc trò chuyện của chúng tôi, những cảm xúc lẫn lộn nhưng
không có sự “dửng dưng”; tôi nhận ra, thứ cảm xúc tràn ngập trong những
lời tôi nói với Lajos, là dấu hiệu của một mối quan hệ không cầu kỳ, ủy mị,
hay chất chứa những mơ mộng hư ảo của ánh trăng trong dĩ vãng. Chúng tôi
trò chuyện về thực tại. Và như thể, sau bao nhiêu sương khói mịt mờ, chúng
tôi cần phải bấu víu vào thực tại, tôi trả lời rất nhanh, không lựa chọn từ
ngữ:
– Anh không thể cho tôi cái gì được nữa. Anh đã lấy đi tất cả, anh đã
tàn phá tất cả.
Anh đáp, đúng như tôi chờ đợi:
– Phải.
Rồi bình thản nhìn tôi bằng đôi mắt xám trong veo; và ngó mông lung
phía trước. Lời lẽ của anh có một vẻ thơ ngây, gần như vui sướng, như thể
đã được khen ngợi ở một kỳ thi. Tôi rùng mình. Con người này là loại người
gì? Anh mới điềm tĩnh làm sao; giờ anh nhìn quanh, kiểm tra ngôi nhà, tự
nhiên như một kiến trúc sư. Sau đó, anh bắt đầu kể lể: