tưởng của ông. Khi nhìn quanh ông thấy mình đã mất quyền kiểm soát: mốc
trên bàn chải, lũ rắn ngang nhiên trườn qua hiên nhà, đồ đạc trở nên nặng
trịch, và cả Cho Oyu sũng nước rã rời như một khối bột. Cứ mỗi cơn bão
giáng xuống, phần nhà ở được lại ít đi.
Ông tòa thấy mình đã già, già lắm rồi, và trong khi ngôi nhà đang rệu rã
quanh ông, trí óc ông cũng vậy, dường như đã buông xuôi, những cánh cửa
ông hằng đóng chặt, ngăn cách những suy nghĩ với nhau, giờ đang tan biến.
Đã bốn mươi năm qua kể từ ngày ông là một sinh viên văn chương.
Chưa bao giờ thư viện mở cửa đủ khuya.
Cậu đến khi mở cửa, về khi đóng cửa, nơi đây là cứu tinh của những
sinh viên nước ngoài, riêng tư và không có lũ du côn bén mảng.
Cậu đọc một cuốn sách nhan đề là Cuộc thám hiếm đến Goozerat: “Bờ
biển của Malabar nhấp nhô hình con sóng tới bờ Tây Ấn Độ, rồi lượn một
đường duyên dáng ra biển Ảrập. Nơi đây là Goozerat. Trên vùng châu thổ
sông và dọc bờ biền tiềm ẩn bệnh sốt rét là những thị trấn được hình thành
phục vụ cho hoạt động thương mại… “
Những thứ quái quỷ gì thế này? Chúng hoàn toàn xa lạ với những gì
cậu nhớ về quê nhà, về gia đình Patel và cuộc đời của họ trong cái hang thỏ
nhà Patel, song khi mở tấm bản đồ, cậu vẫn tìm thấy Piphit. Nó nằm đó –
như một nốt muỗi đốt bên cạnh dòng sông ảm đạm.
Lòng đầy kinh ngạc, cậu đọc tiếp, về sự xuất hiện của những thủy thủ
mắc bệnh scorbut, người Anh, người Pháp, người Hà Lan, người Bồ Đào
Nha. Cà chua đã theo chân họ du nhập vào Ắn Độ, và cả hạt điều cũng vậy.
Cậu đọc thấy Công ty Đông Ắn đã thuê lại Bombay với giá mười bảng một
năm từ Charles II, người đã vớ được nó, một trái táo tàu tử bọc của hồi môn
của ông ta trong cuộc hôn nhân với Catherine xứ Braganza; và cậu được biết
rằng cho đến giữa thế kỷ mười chín món xúp giả rùa được chở bằng tàu qua
kênh Suez cho những người chết thèm món đó giữa đất nước của gạo và xúp
đậu. Một người Anh có thể ngồi giữa thiên nhiên nhiệt đới, mặt trời như