“BỒI BÀN!!!” ông tòa hét lên, hoàn toàn tuyệt vọng.
“Khéo đi lùa gà rồi,” Bose yếu ớt nói. “Chắc họ không nghĩ là có
khách.”
Ông tòa vào bếp và thấy hai quả ớt xanh nằm chỏng chơ giữa một cái
bát thiếc trên một cái chân đế bằng gỗ có dòng chữ “Giải Nhất Triển lãm
Khoai tây 1933”.
Hết.
Ông lại bàn tiếp tân. “Sao trong bếp chẳng có ai cả thế.”
Người đàn ông ở quầy tiếp tân đang gà gật. “Đã muộn lắm rồi, thưa
ngài. Các vị có thể sang quán Glenary’s ở bên cạnh. Họ có đủ cả nhà hàng
và quầy bar.”
“Chúng ta đến đây để ăn tối. Liệu ta có phải phản ánh về anh với ban
quản lý không?” Người đàn ông nọ hậm hực đi vòng ra sau nhà, và rốt cuộc
một anh bồi bàn cũng miễn cưỡng đến bàn của họ; những vảy đậu lăng đã
khô trên tấm áo xanh tạo nên những đốm vàng. Anh vừa đánh giấc trong
một căn phòng trống – anh thuộc mẫu bồi bàn kiểu cũ nhan nhản khắp nơi,
làm việc theo tác phong của người lao động cộng sản, ung dung tồn tại ngoài
phạm vi ảnh hưởng của cái tư tưởng tư bản tởm lợm là phải phục vụ người
có tiền một cách lịch sự.
“Cừu nướng xốt bạc hà. Thịt cừu có mềm không đấy?” ông tòa hách
dịch hỏi.
Người đầu bếp vẫn không nao núng: “Đào đâu ra thịt cừu mềm bây
giờ?” anh ta đáp lại đầy châm biếm.
“Xúp cà chua?”
Ông cân nhắc lựa chọn này nhưng lại thiếu quyết đoán để giải phóng
mình khỏi sự cân nhắc. Sau vài phút lưỡng lự, Bose sẽ phá vỡ tình trạng bị
yểm bùa ấy bằng cách lên tiếng hỏi, “Rissoles?” Như vậy sẽ cứu vãn được
buổi tối.
“À không,” người bồi bàn nói, lắc đầu và cười rất xấc.