tiếng cười. Vị quyền hiệu trưởng vặn vòi và định xịt nước lạnh cho chúng
tỉnh lại, nhưng đến lúc này thì trong bể làm gì còn nước nữa.
Cả ga cũng hết, dầu cũng vậy. Tất cả quay về đun bằng bếp củi.
Nước cũng không còn.
“Chị cứ để xô ngoài vườn,” Lola bảo Noni, “để hứng nước mưa. Tốt
hơn là không xả nước toilet nữa. Chỉ bỏ một tí Sunny Fresh vào cho nó đỡ
mùi. Đằng nào cũng chỉ dùng vào việc vặt.”
Điện cũng không còn, vì người ta đã đốt sở điện để phản đối những vụ
bắt bớ ở những nơi chặn đường.
Khi cái tủ lạnh rùng mình rồi im bặt, hai chị em phải đem nấu ngay tất
cả những thức ăn có nguy cơ bị hỏng. Hôm đó là ngày nghỉ của Kesang.
Bên ngoài mưa vẫn rơi và sắp đến giờ giới nghiêm; bị mùi cay cay của
món thịt cừu hấp dẫn, một nhóm thanh niên GNLF đang đi tìm chỗ trú bèn
leo qua cửa sổ bếp vào trong nhà.
“Sao cửa trước nhà Mợ lại khóa thế?”
Những chiếc khóa cỡ đại ấy trước kia vẫn nằm trên mấy thùng tôn
đựng đồ quý giá, giờ được chuyển ra cửa trước và cửa sau để tăng cường an
ninh. Trên đầu họ, ở tầng áp mái, mấy món đồ có giá trị bị bỏ lại không có
gì bảo vệ. Những đồ bạc puja gia bảo có từ thời tiền vô thần; những chiếc
cốc cho em bé mua ở Phố Bond đi kèm mấy dụng cụ làm bếp hình dáng như
chiếc bay, một thời từng vét và trút bột Farex vào những cái miệng cá bảy
màu của chúng; một cái ống nhòm sản xuất ở Đức, cái khuyên mũi ngọc trai
của bà cố họ, một cặp kính hình cánh dơi từ những năm sáu mươi; bộ thìa
nạo tủy bằng bạc (nhờ hay quây quần ăn món tủy mà gia đình họ luôn đầm
ấm); những tấm khăn ăn dệt kiểu Damask trên có khâu một cái túi để đựng
những lát sandwich dưa chuột hình tam giác – “Nhớ chỉ vảy vài giọt nước
cho khăn nó ẩm trước khi đi picnic…” Trăm thứ bà rằn nhặt nhạnh từ một
phương Tây lãng mạn và một phương Đông huyền ảo, chứa đựng đủ quyền