năng để bảo tồn phẩm giá con người qua những mâu thuẫn thối nát giữa các
quốc gia.
“Các cậu muốn gì?” Lola hỏi mấy gã trai và nét mặt bà tiết lộ cho
chúng thấy bà có thứ gì đó cần bảo vệ.
“Bọn tôi đi bán lịch và băng cassette cho phong trào, Mợ ạ.”
“Lịch gì, băng gì?”
Tương phản với hành vi đột nhập và quần áo ngụy trang của phiến
quân là thái độ nhã nhặn đến trêu ngươi của chúng.
Những cuốn băng ghi lại bài diễn thuyết được ưa thích gột-rửa-những-
lưỡi-dao-vấy-máu-trong-dòng-nước-mẹ-hiền-của-sông-Teesta.
“Đừng cho gì cả,” Lola thấy sợ hãi, bà thì thào bằng tiếng Anh, cứ ngỡ
rằng bọn chúng không hiểu. “Chị mà cho là chúng quen mui thấy mùi ăn
mãi đấy.”
Nhưng chúng hiểu. Chúng hiểu tiếng Anh của bà còn bà không hiểu
tiếng Nepal của chúng.
“Mọi đóng góp cho công cuộc đấu tranh vì Gorkhaland đều tốt cả.”
“Tốt cho các cậu, không tốt cho chúng tôi.”
“Suỵt,” Noni bấm cô em gái. “Đừng manh động,” bà hổn hển.
“Bọn tôi sẽ viết biên nhận cho mợ,” mấy gã trai nói, mắt dán vào chỗ
thức ăn nằm trên quầy bếp – xúc xích Essex Farm nhìn giống như khúc ruột,
món salami đông lạnh phủ một lớp băng như những bụi kim tước đang tan
chảy.
“Chẳng ăn thua gì đâu,” Lola đáp.
“Suỵt,” Noni lại nói. “Cho bọn tôi một quyển lịch vậy.”
“Một quyển thôi à, Mợ?”
“Thôi được, thì hai quyển vậy.”
“Nhưng Mợ biết là phong trào rất cần tiền…”