giống, bắt nó nhảy đực liên tục. Lời quá còn gì? Cứ đi đến cây số mười ba,
ngài sẽ thấy lũ hậu duệ thấp kém của con Ping chạy rông khắp nơi. Cuối
cùng nó cũng trốn về được, nhưng tính nết đã hoàn toàn thay đổi.” Bà trỏ
vào nạn nhân đang chằm chằm nhìn ông tòa, cái miệng già nua lòng thòng
rớt dãi.
Bác Potty: “Có kẻ định cướp nhà ngài rồi, Ngài Thẩm phán ạ – dọn dẹp
chướng ngại đây mà. Thằng cha Gobbo ngày xưa chả đánh bả con Kutta của
tôi là gì.”
“Nhưng nhà tôi vừa bị cướp xong.”
“Thế tức là có kẻ khác định làm điều tương tự…”
Hai cô công chúa Afghan: “Con chó săn Afghan của chúng tôi cũng
thế, hôm mất nó hai chị em tôi đang đi cùng phụ vương. Nó bị dân Naga ăn
thịt, vâng, chúng ăn cả chó – chúng ăn thịt Frisky. Ngay cả nô lệ – vâng,
chúng tôi có nô lệ – chúng tôi còn dọa giết họ, mà họ vẫn không kịp cứu
được nó.”
Lola: “Dân Ấn Độ mình ác ở chỗ không có tình yêu động vật. Con chó
con mèo chỉ để trút giận. Dân mình không đừng được – đánh đập, ném đá,
hành hạ đến khi con vật lăn ra chết mới thôi, như thế là hả hê lắm – tốt! Vứt
nó đấy! Đập chết nó đi! Xong phim! – như thế là thỏa mãn.”
Ông đã làm gì? Ông thật bất công với nó. Ông đã đẩy Mutt vào một nơi
nó không bao giờ có thể sinh tồn, một miền đất dữ. Lũ chó trên đồi Bhutia –
giống chó tai cụp thân đầy sẹo vì giao tranh, hàm méo mó vì bạo lực, tai
cứng ngắc vì không ngừng tắm máu – biết đâu đã xé xác nó. Bóng đêm đặc
dần trên mỗi con mương, loài hoa tươi tắn như bạch y của giáo hoàng nhưng
lại gây ra ảo giác – biết đâu nó đã nuốt phải nhựa độc. Đôi rắn hổ mang –
hai vợ chồng, cổ bạnh như lọ bánh, sống ở bờ mương sau Cho Oyu – biết
đâu đã cắn nó. Lũ chó rừng bị dại, mắc chứng ảo giác, uống không được, ăn
không được, biết đâu đã từ rừng mò ra, khát, khát đến cùng cực… Mới hai
năm về trước, khi chúng đem dịch dại vào thị trấn, ông tòa đã cho Mutt tiêm