với nhau là anh ấy sẽ không bỏ em và em sẽ không bỏ anh ấy. Cả hai đằng.
Không ai bỏ ai cả. Anh ấy sẽ không chết đi bỏ lại mình em và em cũng sẽ
không chết đi bỏ lại mình anh ấy. Chúng em đã nguyện thế rồi. Từ khi nên
vợ nên chồng chúng em đã bảo nhau như thế.”
Rồi cô òa khóc. Kesang với hàm răng xỉn màu xiêu vẹo, áo quần xoàng
xĩnh lấm lem và cái búi tóc ngộ nghĩnh vấn tạm bợ trến đỉnh đầu. Kesang dù
chưa được đào tạo gì nhưng vẫn được họ nhận vào làm vì lòng rốt và dạy
cách làm mòn saté Indonesia bằng bơ lạc và xì dầu, món chua ngọt với xốt
cà chua và dấm, món ragu Hungary với cà chua và sữa đông. Tinh yêu của
cô đã làm hai chị em kinh ngạc. Lola vẫn luôn nhìn nhận rằng những người
hầu không trải nghiệm thứ tình yêu giống với những ngưòi như chị em bà –
“Cốt lối những mối quan hệ của họ hoàn toàn khác, nó mang tính kinh tế,
thực dụng – quá ư lý trí, nếu người ta có thể chủ động kiểm soár được nó,
em dám chắc là như vậy.” Giờ đây ngay cả Lola cũng buộc lòng tự vấn bản
thân, liệu có phải chính bà mới là người chưa từng nếm trải tình yêu thực sự;
chưa bao giờ bà và Joydeep có một cuộc trò chuyện về niềm tin trong hoạn
nạn – chuyện đò chẳng thực tế chút nào, nên họ không bàn đến.
Nhưng như thế phải chăng là giữa họ chưa bao giờ có tình yêu? Bà
chôn chặt suy nghĩ ấy tận đáy lòng.
Noni chưa hề biết đến tình yêu.
Bà chưa bao giờ ngồi trong một căn phòng tĩnh lặng và nói ra những
điều cổ thể khiến tâm hồn con người ta bập bùng như ánh nến. Bà chưa bao
giờ đong đưa làm dáng tại những buổi tiệc ở Calcutta, sari bó sát ngang
hông, đá khua lanh canh liên hồi trong ly soda chanh. Bà chưa một lần phất
ngọn cờ huy hoàng sắc đỏ của ái tình phấp phới trên sự tồn tại của mình, dù
chỉ ngắn ngủi như một hồi trong vở kịch, một chút vờ vĩnh để nâng chính
bản thân vượt lên khỏi đời mình. Bà cò được gì? Không cả oán thù ghê gớm;
không cả đau khổ đắng cay. Chỉ giản đơn là những nỗi cáu kỉnh quanh