giây cảnh giác trôi qua, và tôi hết sức cố gắng để không búng tàn thuốc lá
lên đụn cỏ nào.
“Chưa rõ ai là người chiến thắng,” Đại Tá nói. “Vẫn còn chỗ trống. Tới
lượt cậu, bồ tèo.”
Alaska nằm ngửa, hai tay đặt sau đầu. Cô ấy nói thật khẽ và thật nhanh,
nhưng ngày yên ả đang dần chuyển sang đêm tĩnh lặng—côn trùng giờ đã
bay đi khi mùa đông đến và chúng tôi có thể nghe tiếng cô rất rõ.
“Ngày mẹ dẫn mình đến sở thú nơi bà thích khỉ và mình thích gấu, hôm
đó là thứ Sáu. Mình trở về từ trường học. Mẹ ôm mình và bảo mình vào
phòng làm bài tập để lát nữa còn xem TV. Mình đi vào phòng, và mẹ ngồi
xuống ở bàn bếp, mình đoán, và rồi bà hét lên, và mình chạy ra, và bà đã ngã
xuống. Bà đang nằm trên sàn, ôm đầu và co giật. Rồi mình hoảng lên. Đáng
ra mình nên gọi 911, nhưng mình chỉ la hét và gào khóc đến khi mẹ ngừng
co giật, và mình nghĩ bà đã thiếp đi và cái đau giờ không còn nữa. Nên mình
chỉ ngồi trên sàn với bà đến khi bố về nhà chừng một tiếng sau, và ông thét
to, ‘Sao mày không gọi 911?’ và cố hô hấp nhân tạo cho mẹ, nhưng lúc ấy
bà đã chết lâu rồi. Phình mạch máu. Ngày tệ nhất. Mình thắng. Các cậu uổng
đi.”
Và chúng tôi uống.
Không ai nói gì trong một phút, và rồi Takumi hỏi, “Bố cậu trách cậu?”
“Chà, sau lần đầu tiên đó thì không. Nhưng ừa. Sao lại không chứ?”
“Thì, cậu là một đứa trẻ,” Takumi phản bác. Tôi cũng quá ngạc nhiên và
bối rối không thể góp lời, cố gán ghép câu chuyện này vào những gì tôi đã
biết về gia đình của Alaska. Mẹ của cô ấy chỉ cô trò cốc-cốc lúc Alaska sáu
tuổi. Mẹ cô ấy tùng hút thuốc nhưng giờ thì không, dĩ nhiên.
“Ừ. Mình là một đứa trẻ. Một đứa trẻ có thể gọi 911. Chúng làm thế suốt.
Đưa rượu cho mình,” cố ấy nói, nghiêm nghị và vô cảm. Cô uống mà không
nhấc đầu khỏi đụn cỏ khô.
“Tôi rất tiếc,” Takumi nói.