hơi thở ấm nóng và ngọt ngào phả trên mặt tôi như gió thổi qua những ngọn
cỏ cao.
“Chào,” tôi nói. “Mình nhớ cậu.”
“Trông cậu tuyệt lắm, Bé Bự.”
“Cậu cũng thế.”
“Mình lõa thể quá,” cô ấy nói, và bật cười. “Sao mình lõa thể như vậy?”
“Mình chỉ muốn cậu ở lại,” tôi nói.
“Không,” Alaska đáp, và ngã sụp xuống người tôi, đè bẹp ngực tôi, làm
tôi đứt thở, và cô ấy lạnh lẽo và ướt đẫm, như đá đang tan. Đầu cô ấy bị chẻ
đôi, một chất nhầy đặc quánh màu hồng ứa ra từ vết nứt trên xương sọ và
nhỏ xuống mặt tôi, và cô ấy hôi mùi formaldehyde và thịt thối rữa. Tôi nôn
ọe và đẩy cô ấy ra khỏi người, hốt hoảng.
Tôi ngã xuống khi tỉnh dậy, và đáp đất với một tiếng bịch trên sàn. Tạ ơn
trời tôi nằm giường tầng dưới. Tôi đã ngủ mười bốn tiếng. Trời đã sáng. Thứ
Tư, tôi nghĩ. Đám tang của cô ấy vào Chủ Nhật. Tôi tự hỏi liệu Đại Tá có về
kịp lúc đó không, dù gã đang ở đâu. Gã phải trở về dự đám tang, vì tôi
không thể đi một mình, và đi với ai khác ngoài Đại Tá cũng đi một mình.
Gió lạnh đập mạnh ngoài cửa, và hàng cây bên ngoài cửa sổ phía sau rung
lắc dữ dội đến mức tôi nghe thấy chúng từ phòng mình, và tôi ngồi trên
giường nghĩ đến Đại Tá đang ở đâu đó ngoài kia, đầu gã cúi xuống, hàm
răng nghiến chặt, rồi đi về hướng gió.
bốn ngày sau
LÚC ĐÓ LÀ NĂM GIỜ SÁNG, tôi đang đọc tiểu sử của nhà thám hiểm
Meriwether Lewis (cùng tiếng tăm của Clark) và cố giữ mình tỉnh táo thì
cửa bật mở và Đại Tá bước vào.
Đôi tay trắng bệch của gã run rẩy, và cuốn niên giám gã cầm trong như
một con rối đang nhảy mà không cần dây. “Mày lạnh không?” tôi hỏi.