chuyện với ai nữa. Nên nghe này, tao đã vạch ra một kế hoạch: Một. Nói
chuyện với nhân chứng. Hai. Điều tra xem nó say đến thế nào. Ba. Điều tra
xem nó đang đi đâu, và tại sao.”
“Tao không muốn nói chuyện với Jake,” tôi hờ hững nói, sớm từ bỏ
những kế hoạch liên miên của Đại Tá. “Nếu anh ta biết, tao chắc chắn sẽ
không muốn nói chuyện với anh ta. Và nếu anh ta không biết, thì tao cũng
không muốn giả vờ là chuyện đó chưa từng xảy ra.”
Đại Tá đứng dậy và thở dài. “Mày biết không, Bé Bự? Tao thấy tội nghiệp
mày. Thiệt đó. Tao biết mày đã hôn nó, và tao biết mày đau lòng vì việc đó.
Nhưng ngậm miệng đi, thật đấy. Nếu Jake biết, mày sẽ không làm mọi
chuyện tệ hơn. Và nếu anh ta không biết, anh ta sẽ không phát hiện ra. Nên
thôi lo lắng về bản thân mày chừng một phút và nghĩ về người bạn đã chết
của mày đi. Xin lỗi. Hôm nay tao mệt quá.”
“Không sao,’’ tôi nói, kéo mền trùm kín đầu trở lại. “Không sao,” tôi lặp
lại. Và, gì cũng được. Mọi chuvện không sao. Bắt buộc phải thế. Tôi không
thể đánh mất cả Đại Tá.
mười ba ngày sau
VÌ PHƯƠNG TIỆN DI CHUYỂN CHÍNH CỦA CHÚNG TÔI giờ đã
nằm dưới sáu tấc đất ở Trạm Vine, Alabama, Đại Tá và tôi buộc phải cuốc
bộ đến Sở Cảnh Sát Pelham để tìm nhân chứng. Chúng tôi rời đi sau khi ăn
tối ở căn-tin, đêm xuống rất nhanh và sớm, và chúng tôi lê bước lên Cao tốc
119 chừng một dặm rưỡi trước khi đến một tòa nhà một tầng trát vữa nằm
giữa tiệm Waffle House và trạm xăng.
Bên trong, một cái bàn dài cao ngang vùng bụng dưới của Đại Tá ngăn
chúng tôi với đồn cảnh sát thật sự, gồm ba sĩ quan mặc đồng phục ngồi ở ba
cái bàn, tất cả đều đang nói chuyện điện thoại.
“Tôi là anh trai của Alaska Young,” Đại Tá dõng dạc tuyên bố. “Và tôi
muốn nói chuyện với viên cảnh sát đã chứng kiến nó chết.”