vãi,” Đại Tá chê bôi, “chúng ta thậm chí còn không có linh vật. Tao gọi cả
bọn là Culver Creek Vô Danh.”
“Vậy là họ chơi rất dở?” tôi hỏi. Tôi không hiểu rõ ý nghĩa của việc xem
đội bóng kém tắm của mình bị đánh bại, dù dàn máy điều hòa đã đủ làm lí
do cho tôi.
“Ờ, dở lắm,” Đại Tá đáp lời. Nhưng chúng ta luôn hạ đo ván bọn trường
đui-điếc.” Có vẻ môn bỏng rổ không phải là ưu tiên hàng đầu của Trường
Alabama dành cho Trẻ Đui Điếc, thành thử chúng tôi thường kết thúc mùa
giải với chiến thắng độc nhất.
Khi chúng tôi đến nơi, sân tập đã chật ních với hầu hết học sinh ở Culver
Creek. Tôi nhận ra, ngay lập tức, ba cô gái mang phong cách gothic ở Creek
đang kẻ lại viền mắt trong lúc ngồi ở hàng ghế trên cùng trong phòng thể
dục. Hồi còn ở nhà, tôi chưa bao giờ tham dự một trận đấu bóng rổ, nhưng
tôi đồ rằng đám đông ở đó không đông đến thế này. Dẫu vậy, tôi vẫn ngạc
nhiên khi người ngồi trên hàng ghế ngay trước mặt tôi không ai khác chính
là Kevin Richman, trông khi đội cổ động của trường đối thủ (màu đại diện
của họ vô phước lại là màu nâu đất và màu vàng của nước tiểu khô) cố kích
động khu vực đội khách mời ít ỏi lẫn trong đám đông. Kevin quay lại và liếc
Đại Tá.
Như phần lớn những thằng Chiến Binh khác, Kevin ăn mặc rất trịch
thượng, nhìn hắn y chang một gã luật sư thích đánh golf tương lai. Và tóc
của hắn, vốn là một đống bùi nhùi màu vàng, được cắt ngắn ở hai bên và
chỉa tứ tung trên đỉnh đầu, lúc nào cũng mướt rượt gel như bị ướt đẫm. Tôi
không ghét hắn đến mức giống Đại Tá, dĩ nhiên, vì Đại Tá bẩm sinh đã ghét
hắn, và cái sự ghét bẩm sinh nó mạnh gấp tỉ lần cái sự ghét “Thằng kia, giá
như mày đừng quấn tao như xác ướp và quăng tao xuống hồ.” Dẫu vậy, tôi
vẫn cố nhìn hắn hăm dọa lúc hắn nhìn
Đại Tá, nhưng thật khó có thể quên đưọc rằng thằng cha này vừa nhìn
thấy cái mông lép kẹp trông chiếc quần lót độc nhất của tôi chỉ vài tuần
trước.