Nhưng đến trưa, cơn sốt đột ngột lên tới bốn mươi độ. Người bệnh liên
tục mê sảng và nôn trở lại. Hạch ở cổ sờ vào thì đau và ông lão muốn tìm
cách xoay đầu ra thật xa thân mình. Bà vợ ngồi dưới chân giường, hai tay
đặt trên nền, khẽ sờ chân người bệnh. Bà ta nhìn Riơ.
- Bà này - Riơ bảo - phải cách ly ông lão và cố gắng tiến hành một
cách điều trị đặc biệt. Tôi gọi điện cho bệnh viện và chúng ta sẽ chở ông lão
đi bằng xe cứu thương.
Hai tiếng sau, trong xe, bác sĩ và bà lão cúi nhìn người bệnh. Ông lão,
miệng phủ đầy những vết sùi, lẩm bẩm mấy từ rời rạc: “Đàn chuột!” Da
xanh xao, môi màu sáp, mí mắt màu chì, hơi thở không đều và gấp gáp bị
những cái hạch giày vò, lão cuộn tròn lại trên chiếc ghế dài như thể muốn
gập nó lại bó lấy thân hình mình, hay như thể có một cái gì từ dưới lòng đất
kêu gọi ông ta không ngừng. Ông lão ngạt thở dưới một sức nặng vô hình.
Bà vợ ngồi khóc.
- Không còn hy vọng nữa phải không, thưa bác sĩ?
- Ông ấy mất rồi. Riơ đáp.
Cái chết của ông lão gác cổng có thể nói là đánh dấu sự kết thúc một
thời kỳ đầy rẫy những dấu hiệu khiến người ta ngạc nhiên và sự mở đầu
một thời kỳ khác, tương đối khó khăn hơn, trong đó nỗi kinh ngạc những
buổi đầu biến dần thành nỗi kinh hoàng thực sự. Đồng bào chúng tôi chưa
bao giờ nghĩ cái thành phố nhỏ bé này có thể là một nơi đặc biệt thuận lợi
cho họ hàng nhà chuột đến chết dưới ánh nắng mặt trời và những người gác
cổng bỏ mạng vì những bệnh tật kỳ cục. Bây giờ thì họ thấy rõ điều đó.
Tóm lại, về phương diện này, họ đã nhầm lẫn và ý nghĩ của họ, cần phải
xem xét lại. Giá như tình hình chỉ dừng lại ở đấy thì chắc hẳn thói quen sẽ
làm người ta quên đi. Nhưng những đồng bào khác của chúng tôi, và không
phải chỉ là những người gác cổng hay những kẻ nghèo khổ, đã phải nối gót
ông lão Misen. Từ đó, người ta bắt đầu sợ hãi và suy tư.
Tuy nhiên, trước khi kể chi tiết những sự kiện mới này, người tường
thuật thấy cần nhắc đến quan điểm của một nhân chứng khác về thời kỳ vừa