chiếc C-47 thả hết Tiểu đoàn dù Lê dương số 1 và quay về Hà Nội. Cho tới
khi nào đường băng đi vào hoạt động, mọi thứ vẫn phải tới bằng đường thả
dù hoặc rơi tự do. Dây thép gai, đạn dược, các vũ khí hạng nặng, máy phát
điện, bếp ga, bộc phá, chăn màn, bao cát rỗng, bình lọc nước, thịt, rau quả
tươi, nước mắm rượu, bia… mọi thứ đều được đổ dồn từ máy bay xuống
đất. Trưa hôm đó một chiếc xe ủi nhỏ dành cho các công binh sửa đường
băng được đưa xuống từ phía cửa sau của chiếc C-119. Nó rơi tự do xuống
đất bị chệch hướng và hư hỏng. Thay vào đó là một chiếc máy đủ độ an
toàn hơn được đưa đến sau 48 giờ. Những chiếc dù của Tiểu đoàn dù xung
kích số 8 của Thiếu tá Pierre Tourret và của một đại đội trọng pháo lính dù
Lê dương cũng đã mở tung trên khắp thung lũng trưa ngày hôm đó.
Trưa hôm sau chờ cho mưa ngớt, Tiểu đoàn dù ngụy số 5 của Quân đội
quốc gia Việt Nam hay Bawouan (cái tên người Pháp đặt cho Tiểu đoàn
này) cùng với các sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp do Thiếu tá Leclerc chỉ huy đã
nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Bawouan - gồm các cựu chiến binh của bộ
binh thuộc địa, một số cựu Việt Minh, một số tân binh - đã chứng tỏ sự lộn
xộn và mâu thuẫn trong chính quyền người Việt chống cộng do Pháp điều
khiển. Đêm 22 tháng 11 năm 1953 đội quân đồn trú mới thành lập có 4.560
tên.
Ngày hôm sau 2 chiếc “Beaver” cánh cao, trục đơn hạ cánh xuống đường
băng hỏng do đám công binh dù bỏ lại. Những chiếc máy bay này do người
Canada chế tạo rất phù hợp cho việc cất cánh và hạ cánh xuống những
đường băng ngắn và gồ ghề ở Đông Dương. Chiếc Beaver đầu tiên chở toàn
xe đạp, chiếc thứ 2 chở Thiếu tướng Cogny - Tư lệnh lực lượng mặt đất Bắc
Bộ, tới thanh sát Điện Biên Phủ lần đầu tiên.
Cogny 49 tuổi là một lính pháo binh, cao to và dễ gây ấn tượng, sau khi
trốn khỏi nhà tù của Đức năm 1941, ông tham gia kháng chiến. Ông bị
Gestpo (Cảnh sát mật của Đức Quốc Xã - ND) bắt năm 1943 và đưa tới các
trại giam Buchenwald và Dora. Năm 1945 ông được tự do. Ông tới Đông