cáo: “Điều kiện khí hậu ở sườn đồi bên nay của dãy núi Trường Sơn An
Nam không bao giờ giống với sườn đồi phía đối diện. Hiếm khi cả hai vùng
cất cánh và vùng tác chiến đều có được thời tiết tốt”. Sự thực đơn giản này
cũng đủ nghiêm trọng đối với các phi cơ vận tải, nhưng nếu không có
chuyến bay nào thì có thể gây ra những hậu quả bi đát hơn. Nếu các máy
bay ném bom và chiến đấu không cất cánh được cần phải nhờ tới sự cứu trợ
của không quân ngay.
Việc tăng cường khả năng phòng không của đối phương trở nên phiền phức
hơn: Trong một báo cáo tác chiến bí mật gửi tới Paris hồi tháng 12, Tướng
Henri Charles Lauzin, Tư lệnh trưởng lực lượng không quân Pháp ở Viễn
Đông cho biết: “Theo dự đoán vào cuối tháng 10, số vũ khí AA của đối
phương tăng lên đáng kể, vẫn giới hạn ở loại súng 20 ly, loại AA này đặc
biệt chủ động và chính xác”. Một báo cáo tương tự cho biết đối phương đã
đưa tới 24 máy bay chiến đấu, 4 máy bay ném bom, 16 máy bay vận tải và
9 máy bay quan sát. Lauzin chỉ ra rằng những sửa chữa theo yêu cầu đã làm
mất 470 giờ bay. Tổ bay chiến thuật miền Bắc của Tướng Dechaux vốn đã
bị căng ra lại còn phải đáp ứng yêu cầu cung cấp không quân ở Điện Biên
Phủ, ở Bắc Lào, ở đồng bằng Bắc Bộ và phía Bắc Hà Nội. Các máy bay
chiến đấu và máy bay ném bom B-26 của không quân được tăng viện là của
hải quân từ hàng không mẫu hạm Arromanches đang hoạt động ngoài khơi
Vịnh Bắc Bộ.
Nhu cầu can thiệp vào hoạt động của Việt Minh, cắt các nguồn hàng tới
Điện Biên Phủ và tấn công các đoàn công binh, dân công hoặc các phân đội
lao động dân thường đang làm việc trên các tuyến đường 13 và 41 giờ đã là
quá sức đối với khả năng không quân của hải quân và của lực lượng không
quân Pháp. Pháp chính thức đưa tới 173 máy bay chiến đấu và gần 80 máy
bay vận tải. Thực tế, hỏng hóc về cơ khí hoạt động của đối phương, sửa
chữa thông thường tổn thất về người ốm đau đã làm giảm quân số lính dù
tới gần một nửa. Các bác sĩ luôn trong tình trạng khẩn cấp, các nhân viên kỹ
thuật có quá nhiều việc. Các phi công không phải bám đuổi nhau hoặc bay