Lính bộ binh tìm mọi cơ hội tiếp cận lính pháo binh để nói chuyện và học
thêm về cách kéo pháo bằng xe tải. Khi quay về đơn vị họ truyền nhau bằng
một giọng rất nhỏ “Xe mẹ kéo xe con”.
10km đường chật hẹp tới mức nếu bánh xe bị chệch nhẹ, pháo sẽ lăn xuống
vực sâu. Đường mới mở nhanh chóng bị lầy tới mắt cá chân. Bằng những
cơ bắp chúng tôi phải thay các xe tải để kéo pháo vào vị trí. Chúng tôi chỉ
ăn cơm, đôi khi sống hoặc khê; những bếp lửa không được bốc khói vào
ban ngày và không được sáng vào ban đêm. Để leo lên một sườn đồi, hàng
trăm người phải bò trườn trước pháo, khoác lên vai những chiếc dây thừng
và kéo lên từng inch một. Vào những chỗ dốc cao chiếc tời kêu cót két;
càng khó hơn khi xuống dốc; lái và chặn những chiếc bánh xe là công việc
của lính pháo binh. Lính bộ binh chỉ dùng dây và tời. Ban đêm toàn dùng
bằng đèn pin để duy trì độ sáng từ 500 tới 1000 mét.
Mặc dù, đường mòn được ngụy trang cẩn thận, Tướng Trần Độ vẫn phát
hiện ra rằng lá cây thường quá cũ.
Cành và lá cây héo đi và rối tung lên, đôi khi làm cho đối phương nghi ngờ.
Ban ngày, các máy bay trinh sát gầm rú trên đầu, liên tiếp bổ nhào xuống
trong khi các máy bay chiến đấu ném bom và tàn phá. Ban đêm pháo binh
của đối phương rất năng động, có khi pháo của nó gây cho ta nhiều thương
vong. Mỗi lần pháo của đối phương bắn ra, lại kéo theo một trận mưa
mảnh đạn, tiếng nổ inh tai và những cây to bị chẻ ra. Những người kéo
pháo anh dũng phải nằm xuống trong vài giây, không được rời tay khỏi dây
kéo cho dù tay bị bật máu. Khi những khẩu pháo cuối cùng được vào vị trí,
lại phải khiêng vác đạn lên.
Đây là những ngày thử thách gay go với Tướng Giáp. Ông hy vọng tấn
công trước khi các căn cứ phòng thủ của Pháp hoàn thành, trung thành với
phương châm “cơ động, linh hoạt và bất ngờ”. Nhưng báo cáo tình báo về
các pháo đài của Pháp cho thấy không mấy thuận lợi. Đại tá Bùi Tín nhớ
lại: