Đó là một máy bay vận tải hai động cơ Ci7 do Mỹ sản xuất đã cất cánh từ
sân bay Bạch Mai vào lúc 5 giờ sáng ngày 20 tháng Mười Một năm 1953,
trong khoang chất đầy điện đài và mang theo tám giờ nhiên liệu. Máy bay
đó có một nhiệm vụ kép.
Nó phải đánh giá điều kiện thời tiết trên vùng thung lũng có thuận lợi hay
không và có nên hay không thả một toán quân dù thiện chiến đi trước đại
quân, nhảy xuống chiếm những drop zones (D.Z), tức là những bãi nhảy dù,
để đặt những thùng pháo sáng làm cọc tiêu.
Nếu điều kiện thời tiết xấu thì cuộc hành binh sẽ bị huỷ bỏ. Quả vậy, không
thể nào để các máy bay vận tải nằm chết dí ở Hà Nội được: người ta đang
quá cần chúng ở các nơi khác.
Vào lúc 6 giờ 30, khi máy bay bay lượn trên thung lũng, tầm nhìn xa hầu
như là zero do có mưa phùn cái thứ mây mù nó là đặc điểm khí hậu của
vùng Tây Bắc Việt Nam ngay cả trong mùa khô. Lúc này quyết định cho
nhảy hay hoãn nhảy thụộc về trách nhiệm của tướng Dechaux.
Máy bạy bay từ từ lượn những vòng rộng bên trên thung lũng phủ kín
sương mù. Trong khoang lái đầy ngườ một sĩ quan hàng không vận tải và
một nhân viên khí tượng của không quân cân nhắc liệu có khả năng sương
mù tan kịp cho cuộc nhảy hay không. Đến 7 giờ, những tia nắng mặt trời
mọc bắt đầu soi rọi những tầng mây trên, những đám mây này tan đi trông
thấy. Người nhân viên khí tượng ti n đến bên tướng Dechaux đang quan sát
thung lũng qua cửa sổ máy bay, nói với ông ta vài lời, nhưng lời nói của anh
bị át đi trong tiếng động cơ.
Dechaux tiến đến bên báo vụ viên chịu trách nhiệm giữ liên lạc radio trực
tiếp với bộ tham mưu ở Hà Nội và trao cho anh ta một bức điện. Bức điện
này tới tướng Cogny tư lệnh Lực lượng trên bộ Bắc Việt Nam (F.T.N.V)
vào lúc 7 giờ 20 và lập tức được ông ta chuyển cho người chỉ huy không
quân vận tải Đông Dương đang ngồi trong máy bay đợi ở sân bay Bạch
Mai. Cuộc hành binh “Castor” đã bắt đầu Cho tới lúc ấy, cái tháng Mười
Một năm 1953 này đã thật sự là một địa ngục đối với các phi hành đoàn của