của họ). Riêng chỉ có binh đoàn cơ động số 10, gồm quân Bắc Phi, là có thể
đưa ra sử dụng ở miền Bắc. Nhưng việc rút nó đi sẽ bao hàm một mối nguy
hiểm thực sự, bởi vì nó là đơn v duy nhất có chất lượng bảo đảm, và sự có
mặt của một dơn vị mạnh là càn thiết để làm nòng cốt - nhất là trong chiến
đấu phòng ngự - cho một khối rời rạc những lực lượng kém cỏi.
Còn về phương tiện hàng không thì vị tướng lập luận như sau:
Tấn công không đòi hỏi nhiều máy bay hơn phòng ngự…
vả lại những máy bay ấy phần lớn gồm những cái không thể sử dụng được
cho Điện Biên Phủ, hoặc do chủng loại, hoặc do tình trạng máy móc của
chúng.
Phân tích kỹ thì những lý lẽ đó không đứng vững. Trong những binh đoàn
cơ động được điều cho cuộc hành binh “Atlante”, có các bilth đoàn số 10 và
số 100 - một bộ phận quan trọng gồm những binh lính rút ở Triều Tiên về -
có thể được sử dụng ở Bắc Việt Nam lắm chứ. Còn những máy bay có tầm
hoạt động không đủ xa để làm nhiệm vụ ở Điện Biên Phủ thì có thể được sử
dụng ở Bắc Kỳ, như thế sẽ giải phóng được những máy bay có thể sử dụng
cho những nhiệm vụ trên.
Vả lại muốn xem mở cuộc hành binh “Atlante” là đúng hay sai thì phải
đánh giá qua kết quả đạt được Vậy mà, sau một khởi đầu tốt - một cuộc đổ
bộ thành công ngày 20 tháng Giêng năm 1954 xuống Tuy Hòa ở phía sau
lưng quân địch – cuộc hành binh chẳng bao lâu sau đã hoàn toàn sa lầy
Binh lính Việt lần đầu xuất trận hoặc là chiến đấu kém hoặc là lao vào cướp
bóc. Các quan chức chính phủ Việt Nam được phái tới để cai trị những
vùng giải phóng đã xử sự còn tồi tệ hơn các người nhà binh. Và chẳng bao
lâu, không có gì phải e ngại về cái đầu cầu ấy, quân Việt Minh chuyển sang
phản công trên miền cao nguyên rừng núi, tiêu diệt binh đoàn G.M. 100 và
buộc Navarre phải điều từ Bắc Kỳ tới những tiểu đoàn dù được giữ làm dự
bị cho Điện Biên Phủ.