trình bản nghiên cứu lên tổng tư lệnh, Cogny đã viết thẳng thừng: “Tôi xin
mạn phép được nhấn mạnh với ngài việc cần phải giữ vững Điện Biên Phủ
bằng bất cứgiá nào như ta đã có ý định”. Sau này, vị tư lệnh các lực lượng
trên bộ Bắc Việt Nam (F.T.N.V.) giải thích rằng ông nhấn mạnh như thế
không phải vì ông tán thành chủ trương của tổng tư lệnh chấp nhận trận
đánh trong vùng thung lũng, mà là vì ông cho rằng giải pháp cố th ỉ còn hay
hơn giải pháp rút lui vì nó có thể dẫn tới những tổn thất nặng nề. Tuy nhiên,
phải thừa nhận rằng câu trả lời của ông ta nói với tống tư lệnh không hề thể
hiện rõ điều đó.
Nhưng bản thân Navarre không còn tự tin như trước. Trong một lá thư đề
ngày 1 tháng Giêng năm 1954 gửi lên chính phủ, ông viết như sau:
Trong trường hợp bị tấn công, khả năng thắng lợi của chúng ta là thế nào?
Mới cách đây hai tuần, tôi đánh giá là 100%. Đó là trận đánh được chấp
nhận trên một địa bàn ta chọn và trong những điều kiện tốt nhất chống lại
một kẻ địch nắm trong tay nhừng phương tiện ta biết nó có kể cho tới ngày
1 5 tháng Chạp. Nhưng theo những nguồn tin rất đáng tin cậy của ta, kẻ
địch đã có những phương tiện mới, do đó, tôi không còn có thể đảm bảo
chắc chắn thắng lợi. Đây trước hết là một trận đánh bằng không quân.
Tuy nhiên, trước những thông tin mới ấy - kẻ địch nhận được ồ ạt phương
tiện kỹ thuật của Trung Quốc và Liên-xô, nhiều đại đoàn Việt Minh hành
quân cấp tốc lên Điện Biên Phủ và chính phủ Pháp từ chối không cấp cho
ông viện binh mới - cái kết luận rứt ra tất yếu phải là giảm bớt quy mô hoặc
hủy bỏ cuộc hành binh “Atlante”. Nhưng ông lại cho nó nổ ra vào ngày 20
tháng Giêng đúng như dự định.
Trong tình thế hiểm nghèo ấy, Navarre đã thôi không áp dụng cái chính
sách tiết kiệm lực lượng nó là chính sách của ông từ khi ông lên nắm quyền
chỉ huy. Vậy là Điện Biên Phủ, từ chỗ là một cuộc hành binh táo bạo nhưng
không lấy gì làm mạó hiểm lắm, đã trở thành một ván bài được ăn cả ngã về
không. ông viết trong lá thư ngày 1 tháng Giêng của mình: