"Hôm đó chúng tôi không được báo trước (điện báo đến chậm), Lalăng viết
cho bố Alanh, ba chiếc trực thăng đến cùng một lúc trên bàu trời. Thật là
một cơ hội hiếm hoi nếu không biết tận dụng ở mức tối đa. Một trong ba
chiếc đậu xuống trước bệnh xá, thả người lái phụ xuống rồi bay lên để tránh
pháo địch. Chúng tôi giải thích cho người lái phụ biết nên đỗ ở đâu để đỡ bị
địch quan sát hơn. Khi chiếc trực thăng kia trở lại, chúng tôi cấp tốc đưa
con ngài - đứng phía bên trong số người bị thương phải sơ tán đang chờ sẵn
ngay cửa ra vào bệnh xá - lên trực thăng và cất cánh". Buồn bã đến mức giữ
im lặng suất nhiều năm, linh mục Ghiđông, cha tuyên úy, mãi đến năm
1961 mới thổ lộ chứng kiến của mình với tướng Gămbiê : "Tôi đang ở trong
chiếc hầm trú ẩn, nghe tiếng động cơ trực thăng tôi chạy ra. Nó đỗ xuống
gần bệnh xá thì một quả đạn rơi xuống bên cạnh. Trước nguy cơ đó, trực
thăng bay lên nhưng đúng lúc đó một quả đạn thứ hai nổ ngay dưới bụng
nó. Chiếc trực thăng hình như bị sức ép của đạn nhưng vẫn tiếp tục bay đi,
rồi một ngọn lửa to phụt ra, người ta thấy phi công cố tìm cách cho máy bay
đỗ xuống, nó đã ở trên các hầm hố tổ ong của pháo binh và đổ nghiêng
xuống hàng rào dây kẽm gai, cửa hướng vào phía trong. Trung sĩ lái phụ đã
kéo được người lái chính ra phía ngoài, anh ta bị gãy chân. Một thùng dầu
bốc cháy nhưng phía cửa máy bay không có lửa. Các pháo thủ thét lên:
"Cẩn thận, khéo đụng phải mìn". Thùng dầu thứ hai nổ, chiếc trực thăng
thành một lò lửa khổng lồ. Tôi nói một lời xá tội và vì không rõ có người bị
thương trên trực thăng hay không, tôi vòng ra sau rào dây kẽm gai để nhìn
các y tá đang xúm quanh người phi công. Chính viên phi công đã nói với tôi
rằng thiếu úy Gămbiê đã ở trên trực thăng (thư của linh mục Ghiđông đờ
Môngtêvécđơ viết ngày 22-3-1961 cho tướng Gămbiê).
Thượng sĩ Hăng ri Bácchiê trước khi bị cưa chân và được thưởng Bắc đẩu
bội tinh. Anh đã giải thích trong bản báo cáo rằng lúc gần 12 giờ 30 người
ta giao thiếu úy Gămbiê cho anh: