Tại Giơnevơ, theo lệnh của Chính phủ, từ 30-4, các quân nhân Pháp đã tiếp
xúc với các đồng nhiệm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, người ta thương
lượng về một nền hòa bình mà mỗi bên đều hy vọng là bền vững, nước Việt
Nam được cắt ngang từ vĩ tuyến 17, việc đình chiến ấn định vào ngày 27-7,
đạo quân viễn chinh có 300 ngày để rút lui khỏi Bắc Kỳ và Bắc Trung kỳ.
Được hai bên chấp thuận ngày 20-7, điều 23 của Hiệp định dự kiến: "Trong
một thời hạn nhất định sau khi Hiệp định đình chiến có hiệu lực sẽ cho phép
nhân viên mai táng của phía bên kia được vào phần lãnh thổ Việt Nam đặt
dưới sự kiểm soát quân sự để tìm kiếm và lấy hài cốt của các quân nhân của
phía bên kia, bao gồm cả những tù binh đã mất".
Một ủy ban hỗn hợp sẽ quy định những thể thức thi hành các công việc này
cũng như thời hạn phải thực hiện. Một phái đoàn của mỗi bên bắt tay vào
việc và thảo ra sự thỏa thuận về những điều kiện theo đó những người chết
tại Đông Dương sẽ được tìm kiếm, nhận dạng và tập hợp lại. Các cuộc
thương lượng đã diễn ra rất tích cực bởi vì chỉ sáu tháng sau khi ký Hiệp
định Giơnevơ, một văn bản sáu trang mới được hai bên thông qua. Bản thỏa
thuận 24 đã được ký ngày 1-2- 1955 do tướng Đờ Brêbítxông và đại tá Lê
Quang Đạo thay mặt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mặt tài chính của công
việc này được một ban khác xem xét với thủ tục được thông qua ngày 4-6
bởi tướng Savát và tướng Văn Tiến Dũng. Nước Pháp có thể yên tâm, các
tử sĩ của nước Pháp sẽ được mai táng trang nghiêm, tử tế. (Chú thích: Từ
năm 1945 đến 1954 quân đội (Pháp) đã mất ở Đông Dương 64.150 người
trong đó 12.550 người Pháp, trong số mất có 2.955 người mất tích. Trong
số mát tích có trung úy Hăngri Lơcléc đờ Hớtơloốc mất ngày 4-1-1952 ở
Trung khu (Bắc Việt Nam), con trai nguyên soái Lơcléc.)
Ngày 13-4-1955 tướng Gămbiê gửi văn bản lưu ý tướng Agôstini, Tham
mưu trưởng về sự quan tâm đối với việc "di chuyển thi hài các quân nhân