tay trái, ở cả hai chân, ở bụng, đầu và bàn tay, trung sĩ nhất Máctanh có
những vết thương bị nhiễm trùng và đầy dòi, Ăngzê Bônopêra viết. Bị bẩn
vì bệnh kiết lị, anh có mùi rất khó chịu và hai chân thì bị sưng lên vì bệnh tê
phù.)
Xanhglăng và Xanh-hile nghe những tiếng hét ở ngoài hầm và một Việt
Minh có một đèn pin - của thu nhặt - xuống cầu thang rất thận trọng đề
phòng. Thấy tình trạng của họ, anh ta cho mang hai cái cáng đến và ra lệnh
đưa họ ra ngoài trời. Họ bị tách ra và nhập vào đoàn người đang kéo lê trên
tỉnh lộ 41. Việc khiêng cáng làm cho đoàn người lộn xộn vô tổ chức, bộ đội
Việt Minh áp dụng hiệu lệnh.
“Sau khi đi được ba hoặc bốn kilômét, Xanhglăng viết, Việt Minh đặt tôi
xuống bên bờ đường và tôi ở lại một mình. Chính ở đó tôi đã qua đêm đầu
tiên của đời tù binh. Có những người đi qua mà không nhìn thấy tôi; thường
là những tù binh đi lên phía bắc, bị lính gác thôi thúc, nhưng số lượng họ đã
giảm. Đám tù binh lớn đã đi qua. Việt Minh cũng vậy vừa hát, vừa đi về
phía nam. Chẳng ai chú ý đến tôi. Sáng ngày 8, sau cái đêm cô đơn vô tận,
một sĩ quan Việt Minh có khoảng một chục bộ đội đi thu nhặt người bị
thương lại gần tôi và nói tiếng Pháp hỏi về thân phận của tôi và tình trạng
các vết thương. Rồi ông ta ra lệnh. Một người lính đi lấy nước ở sông và
người thứ hai nhóm lửa nấu nước sôi. Viên sĩ quan nói ông ta không có cà
phê mà chỉ có những lá chè biếu tôi để uống nước chè nóng. Ông ta sẽ yêu
cầu người ta đến tìm tôi. Ông ta là sự tiếp xúc cuối cùng của tôi đối với thế
giới chiến binh, cái thế giới mà, vì cả hai bên đều vất vả chịu đựng, người ta
đã biết tôn trọng nhau và đôi khi quý mến nhau”.
Buổi chiều ngày 7-5 này, đúng vào ngày thứ năm mươi sáu của cuộc chiến
đấu, là một ngày mệt mỏi kiệt sức với binh sĩ mà nhiều người không nhìn
thấy ánh sáng ban ngày từ nhiều tuần nay. Trong một sở chỉ huy, việc luyện
tập thể lực là con số không, nhiều sĩ quan bình thường là những người đi bộ
giỏi, vững chãi thế mà bây giờ lảo đảo vì buồn ngủ và mệt nhọc. Vécđenhan