số lượng hạn chế" (bao đất, má kẹp đinh đĩa, dây thép gai nhưng gỗ thì lấy
từ các làng đã bỏ trống hoặc chặt trong rừng)".
Knếc cũng lấy làm tiếc rằng các bếp lưu động không đi theo tiểu đoàn, các
pháo thủ nấu cơm trên những bếp tạm thời. Sau đợt tấn công của Việt Minh
"các bếp này toả khói trông rất rõ, đã trở thành những cái bia hảo hạng cho
kẻ thù vì vậy không thể sử dụng lâu dài". Theo Knếc "những bếp lò chạy
xăng có thể giúp ích nhiều". Hiệu quả hơn, không quân đã phát các bếp dầu
hoả cho nhân viên của mình. Một lỗ hổng khác, các pháo thủ chỉ có một y
tá cho mỗi tiểu đoàn pháo còn mỗi tiểu đoàn bộ binh có một bác sĩ. Họ
không được trang bị lưới nguỵ trang để che pháo nhưng thiếu sót này bắt
nguồn từ một ý nghĩ: tại sao lại phải nguỵ trang khi mà nòng pháo 155 sẵn
sàng để bịt mồm pháo binh Việt Minh đã có gan bắn vào vị trí Pháp? Hơn
nữa kẻ thù vờ như ngại phản ứng của pháo Điện Biên Phủ và củng cố cái
cảm tưởng của pháo thủ là họ mạnh hơn.
Từ 31-1, Caxtơri nhận xét, pháo binh Việt Minh xuất hiện, bắn ba mươi
phát. Nó đã bị đánh trả bởi pháo 155 và máy bay cường kích của ta. Mỗi lần
một khẩu pháo bị phát hiện, ba phút sau khi máy bay cất cánh là chấm dứt
không nghe tiếng pháo địch nữa và không thấy bắn trả trong nhiều ngày. Đó
là những khẩu pháo di động, kéo vào rồi lại kéo ra, cỡ pháo không bao giờ
quá 75 li sơn pháo.
Ở Isaben, bác sĩ Pông mô tả "căn hộ" của mình với vợ:
"Cửa đóng bằng một tấm tre đan buộc vào khung bằng một sợi dây. Toàn bộ
được gia cố bằng những thân cây tăng thêm một lớp tre, phía trên là đắp
đất. Giường là một ghế dài bằng đất nện, trên đó đặt một cái đệm bằng gai.
Nằm giường cứng thì tránh được ác mộng” (Thư viết ngày 28-2).
Cái tinh tế nhất là phòng vệ sinh: "Một cái hố mỗi chiều một mét, sâu 1,50
mét, lót vách bằng tre. Trên trần treo một cái gáo, dùng nó tắm nước ấm