đi”. Mấy hôm ấy vợ chồng con cái nó cũng về chơi. Hai đứa đều tốt nghiệp
cao đẳng sư phạm, ra làm giáo viên cả. Gặp dịp nghỉ hè chúng về chơi ngay.
Vợ chồng nó cũng bảo: “Bố mua máy kéo đi thôi, tội gì mà chịu khổ
mãi!… Đôi bò thời nay nào có giá trị gì đâu?”. Theo chúng thì tôi là người
đầu óc còn lạc hậu. Con gái tôi còn chỉ lên tấm lịch tường. “Bố xem, chúng
ta đang sống thế kỷ nào đây? Thế kỷ hai mươi, bố có hiểu là thế nào
không?…”
Còn thằng con rể thì tối nào ăn cơm xong cũng cho tôi một bài giảng:
“Chúng ta đang sống trong thế kỷ máy móc. Thời nay mà còn cày bò thì
thật xấu hổ…”
Con trai thì làm khổ tôi bằng những con toán thống kê: bố đã thuê bao
nhiêu thợ cày? Mười người chứ gì… Họ làm mất bao nhiêu ngày? Một
tháng… Bố thấy chưa, còn nếu chúng ta mua một chiếc máy cầy thì chỉ cần
mình con làm một tuần lễ là đâu vào đấy. Ngoài ra con còn làm thuê cho
người khác và người ta còn phải hôn tay cầu cạnh con nữa. Chỉ một năm là
chúng ta hòa vốn.
Con trai im thì con gái mở miệng, con gái im thì con rể mở máy! Nào là
bò nghỉ bò cũng nhai, còn máy đã nghỉ là nghỉ. Máy muốn chạy chỉ cần vài
chén dầu xăng là tha hồ bon… Lúc nghỉ nó có đòi hỏi gì đâu. Nào là bò
suốt mùa đông ngốn không biết bao nhiêu là cỏ cho vừa cái túi nhai lại của
nó.
Một mình tôi đương đầu với lũ con, nhưng những lời tôi nói ra cứ như
nói ngoài sa mạc. Chúng còn thuyết phục tôi rằng bò còn có thể ngã bệnh,
già yếu và gục chết. Còn máy kéo là sắt là thép! Nó có già yếu mệt mỏi,
chết đứt bao giờ…
Tôi còn chưa chịu đầu hàng thì bà lão nhà tôi lại bồi cho một đòn nữa:
“Nhà Muxa mua rồi, nhà Mêmét đầu hói cũng mua rồi đấy”.
Tối cũng chuyện máy kéo, sáng cũng chuyện máy kéo. Nhưng tôi chịu
nhất là lời của bà lão: “Nhà trưởng thôn mua máy kéo rồi… Còn ông thì cứ
nấn ná… Đến thằng Huyxên con nhà Mêmít cũng mua nữa là…” Thú thật
tôi không còn cách nào khác, đành phải….
— Thế nào, ông Hamít?… Về sau thế nào? - Mọi người tò mò hỏi.