“Đầu óc bầy đàn,” Tom nói khô khan. “Cháu có thực sự tin điều đó không?”
“Cháu tin là thế,” Alice nói. “Bởi vì… cũng giống như… họ có những suy
nghĩ riêng không?”
“Cô bé nói đúng.” Clay nói.
Bầy chim di cư (một khi đã nhìn thấy cảnh ấy, ta không thể nghĩ khác) thưa
dần nhưng không dừng lại, dù đã nửa tiếng trôi qua; có ba người đàn ông đi sát
bên nhau – một người mặc áo sơ mi cộc một người mặc những gì còn sót lại
của một bộ complê, một người có phần dưới của khuôn mặt dính bê bết máu
khô – rồi đến hai người đàn ông và một người phụ nữ đi thành hàng như trong
vũ điệu uốn khúc, rồi đến một người phụ nữ trung niên trông giống một thủ thư
(nếu bỏ qua hình ảnh một bên vú bị lộ ra của bà ta lúc lắc theo nhịp bước) đi
song song với một cô gái cao kều có thể là một quản thư. Đội hình ấy có thể bị
ngắt quãng một lát, rồi hàng chục người nữa lại kéo qua, như đang tạo thành
một hình vuông rỗng, giống như một đơn vị chiến đấu trong các trận đánh của
Napoleon. Từ phía xa, Clay bắt đầu nghe thấy âm thanh của chiến tranh – tiếng
súng trường và súng ngắn, và cả tiếng gầm dài của một khẩu súng tự động có
cỡ nòng lớn (có lẽ là từ phía khu Melford cạnh đó hoặc cũng có thể là ngay tại
khu Malden này). Đồng thời có thêm những tiếng la hét. Phần đa là từ phía xa,
nhưng Clay biết chắc những tiếng kêu ấy có nghĩa là gì.
Vẫn còn những người tỉnh táo quanh khu vực này, khá nhiều, và một số đã
kiếm được súng.Có nhiều khả năng những người đó đang đóng cửa cố thủ
trong nhà. Tuy nhiên, những người khác đã không được may mắn như vậy; họ
đã không ở nơi trú ẩn khi mặt trời lên và đội quân những kẻ mất trí túa ra
đường. Anh nhớ lại cảnh George Thợ Cơ Khí túm lấy đầu ông già bằng đôi tay
to bè, tiếng xương cổ của ông già gẫy đánh rắc một tiếng, và đôi kính lãi văng
vào đám củ cải đường và nằm lại. Mãi mãi nằm lại.