hiện trên bàn của bác sĩ Tuyến, như cách họ gọi ông ta. Tất nhiên,
điều này có nghĩa là anh phải chịu ơn tất cả những thành viên gia
đình đã giúp đỡ anh trong kế hoạch này, và đặc biệt là anh nợ bác sĩ
Tuyến, người trực tiếp trao thị thực cho anh.
Vẫn còn một trở ngại cuối cùng trước khi Phạm Xuân Ẩn có thể
lên đường. Ông đang túc trực từng giờ bên giường của người cha
sắp qua đời. Bệnh lao đã ăn mòn một lá phổi của ông cụ và làm suy
yếu trái tim cụ. Ông cụ bắt đầu thở hắt ra và suy sụp trông thấy.
“Một hôm tôi phải đèo đứa cháu gái mình sang Chợ Lớn bằng xe
scooter,” Phạm Xuân Ẩn nhớ lại. “Trong khi chúng tôi đang chờ
tạnh mưa, ba tôi nói: ‘Nhanh nhanh rồi về nhà. Ba có việc quan
trọng muốn nói với con.’ Ổng kêu má tôi mang nước nóng lại cho
ổng rửa mặt. Ổng thay đồ rồi nằm xuống nghỉ ngơi.
Khi ở Chợ Lớn về tôi tiêm cho ổng một liều thuốc nữa để trợ
tim.”
“Ổng bắt đầu thở rất nặng nhọc, một kiểu thở hắt ra vất vả. Ổng
thở khó nhọc đến nỗi tôi phải đỡ ổng ngồi thẳng dậy trên tay mình.
‘Mang cho ba một tờ giấy trắng,’ ổng kêu. Tôi mang giấy lại cho ổng.
Ổng ký tên vô đó. ‘Con có thể điền ngày vào sau,’ ổng nói. Ổng ký
thêm mười tờ giấy nữa như vậy. ‘Con có thể dùng đến những cái
này khi ba qua đời,’ ổng nói.” Vậy là giờ đây món thừa kế của Phạm
Xuân Ẩn bao gồm cả chữ ký của cha ông, nếu cần đến, trên mười tờ
tài liệu khống.
“Ổng đang sắp đi rồi. Tôi biết ổng đang hấp hối. Con bướm đen
của thần chết, papillon nocturne (bướm đêm), bay vào khung cửa sổ.
Bình thường chúng chỉ bay vào ban đêm. Nó đậu vào cái màn căng
trên giường ba tôi. Cơn hấp hối bắt đầu, trạng thái đau đớn trước
khi con người ta qua đời. Ba tôi trút hơi thở cuối cùng. Con bướm
xòe cánh ra. Tôi biết thế là hết. Trái tim của ba tôi đã ngừng đập.”
Cha ông qua đời ngày 24 tháng 9 năm 1957, và hai tuần sau Phạm
Xuân Ẩn tới Costa Mesa, bang California, để đăng ký vào học năm