Việt Nam và diễn biến cuộc chiến, rồi Shaplen thậm chí còn viết về
Phạm Xuân Ẩn trong một bài báo trên tờ The
New Yorker với nhan đề “Chúng tôi vẫn luôn sống sót”, đăng năm
1972. Phạm Xuân Ẩn “có lẽ là nhà báo Việt Nam làm việc chăm chỉ
và được kính trọng nhất trong thành phố”, Shaplen viết, ông bắt
đầu bài báo của mình với một đoạn dài tả quán cà phê Givral. “Mọi
người đều đến Givral không chỉ để trao đổi thông tin mà còn để
chơi trò đối thoại khôn ngoan mà người Việt Nam vốn chơi giỏi hơn
người Mỹ rất nhiều - thử thách lẫn nhau, nắn gân lẫn nhau, cố gắng
trêu đùa người này để gièm pha người khác. Các thành viên nội các
thỉnh thoảng lại ghé qua, cũng như những quan chức quân sự và
dân sự cao cấp; Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước kia cũng
thường đến, hồi ông ta còn là một sĩ quan quân đội.” Shaplen miêu
tả sự trao đổi thông tin ở Givral được thực hiện theo một nghi lễ
trang trọng như thế nào. “Tại Givral có ba ‘lần phát sóng’ hàng ngày
- một lần vào khoảng mười giờ sáng, một lần vào giữa trưa, và một
lần trong khoảng giữa năm giờ đến bảy giờ, sau những buổi giao
ban báo chí hàng ngày diễn ra tại Trung tâm Dân vụ, phía bên kia
đường. Chương trình buổi sáng chủ yếu xoay quanh những tin đồn
và báo cáo làm ăn, còn hai phiên buổi chiều là về những vấn đề
quân sự và chính trị.”
Mặc dù Phạm Xuân Ẩn thường xuyên ghé vào “đài phát thanh
Givral”, như tên gọi của quán cà phê, suốt ngày, ông cũng khai thác
một mạng lưới rộng lớn những mối quan hệ trải rộng khắp những
khu vực khác của thành phố. “Nếu đài phát thanh Catinat là nơi
trung tâm và công khai nhất cho việc tán phát thông tin, cả đúng lẫn
sai, thì có những nơi khác, cách không xa, cũng quan trọng, mỗi nơi
một kiểu,” Shaplen viết. Đầu tiên Phạm Xuân Ẩn cũng đưa Shaplen
tới chợ chim thú Hàm Nghi gần Đại sứ quán Mỹ cũ. “Cái chợ này
trải rộng khoảng một nửa khu phố, bán khỉ, cầy, báo gấm, thỏ,
chuột lang, đủ các loại chó, mèo, cá và chim - trong các loại chim có
cả chim cu cu châu Phi, bồ câu Pháp và Mozambique, cú, yểng, vẹt,