tại Củ Chi. Đi cùng chúng tôi ngày hôm đó là Thủy Nach, người vợ
Việt Nam của một nhà ngoại giao Mỹ đã nghỉ hưu. Thủy, một người
phụ nữ nhỏ nhắn mắt đen có trí tuệ như bách khoa toàn thư, đã
giúp tôi với tư cách là phiên dịch. Bà cùng ông Tư Cang trao đổi với
nhau về việc họ từng đứng trong số những học sinh xuất sắc nhất
hồi còn ở trường trung học thời thuộc địa như thế nào. Tạm quên đi
việc họ đã chọn những phe đối đầu nhau trong chiến tranh, họ
nhanh chóng phát hiện ra là họ có thể cùng ngâm thơ Việt Nam và
cùng hát những bài hát yêu nước thời xưa.
Tiến vào vùng quê phía Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh, chúng
tôi đi qua những dòng xe cộ và khu buôn bán đông đúc. Đèn của
thợ hàn sáng lóa bên vệ đường với bên cạnh là những người bán
rong băng casse e, phong lan và thuốc lá. Quanh chúng tôi là
những dòng nườm nượp xe máy khi chúng tôi đi qua một hàng dài
những chiếc xe tải xả khói dầu diesel và những chiếc xe lôi chất đầy
lợn gà trong những chiếc lồng tre. Một dân tộc gồm những dòng họ
gia đình gắn kết chặt chẽ xoay quanh thờ cúng tổ tiên và buôn bán
thương mại, người Việt Nam ít giống những người cộng sản nhất
trên thế giới. Lòng trung thành chủ yếu của họ trước hết gắn với gia
đình. Trong một thời gian ngắn chủ trương chống thực dân của
Đảng Cộng sản đã đồng nhất với những khát vọng dân tộc của Việt
Nam, nhưng hiện tại thì những người dân làm ăn xung quanh
chúng tôi trông giống như những học trò của Adam Smith
là của Karl Marx.
Tư Cang cầm cuốn sổ ghi chép của tôi và vẽ một sơ đồ của đồn
điền cao su mà ngày trước ông làm ra vẻ do mình sở hữu cách thành
phố 60 kilômét về phía Bắc và tất cả những cột mốc mà ông đi qua
trên đường 13 khi ông vào thành phố để gặp Phạm Xuân Ẩn. Với
các giao liên và địa điểm liên lạc bí mật rải dọc hai bên, Tư Cang biết
rõ từng xentimét vuông của con đường mà chúng tôi đang đi qua.
Suốt mười dặm đường ì ạch, chúng tôi vừa bóp còi vừa luồn lách
qua những đợt sóng triều dày đặc xe Honda, xe Vespa, xe bò, rồi