xuất hiện và hứa sẽ điện cho đại sứ tại Sài Gòn yêu cầu giúp đỡ.
Trong vòng một tuần, mọi thành viên trong biên chế của Time, chỉ
trừ Phạm Xuân Ẩn, đều được bốc ra khỏi Việt Nam.
“Năm cuộn phim của bà Ẩn đã gởi đi chiều nay. Phim sẽ được xử
lý tại phòng rửa ảnh ở Clark hay Guam,” đó là nội dung bức điện
mật gửi về trụ sở của Time, thông báo rằng vợ của Phạm Xuân Ẩn
và bốn người con đã được chở tới một căn cứ quân sự của Mỹ ở
Thái Bình Dương. Sau khi trải qua “phòng rửa ảnh” Guam và trại
Pendleton ở California, gia đình của Phạm Xuân Ẩn được bố trí ở
Washington, nơi họ ở với déesse của Phạm Xuân Ẩn là Beverly
Deepe. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày Sài Gòn sụp đổ vào tay
cộng sản, Phạm Xuân Ẩn đánh điện về trụ sở tòa soạn ở New York
rằng “văn phòng của Time giờ do mình tôi Phạm Xuân Ẩn, điều
hành”. Sau khi cung cấp một bài phản ánh những sự kiện của ngày
hôm đó ở miền Nam, Phạm Xuân Ẩn gửi thêm ba phóng sự nữa
trước khi đường truyền câm lặng hoàn toàn.
Khi những đồng nghiệp của ông biết được câu chuyện của Phạm
Xuân Ẩn từ những lời đồn đại bắt đầu lan truyền trong những năm
1980, mỗi người mới chợt nhớ ra một điều gì đó đáng ngờ giờ đây
bỗng nhiên lại được giải thích bởi cái thông tin kia. Nick Turner, sếp
cũ của Phạm Xuân Ẩn tại Reuters, khẳng định những mối nghi ngờ
của ông ta về những lần vắng mặt không thông báo của Phạm Xuân
Ẩn khỏi văn phòng. H. D. S. Greenway, được bạn bè gọi là David,
chợt hiểu tại sao người đồng nghiệp của ông tại Time lại biết nhiều
hơn mình về Chiến dịch Lam Sơn 719.
“Tôi đã lên đến tận vùng biên giới gần Khe Sanh, chứng kiến
những người lính bị nện tơi bời rút lui khỏi Lào,” Greenway kể với
tôi. “Tôi miêu tả họ là những người sống sót của thê đội đi đầu
trong cuộc tấn công. ‘Không,’ Phạm Xuân Ẩn nói, không có một
chút do dự. ‘Thê đội đầu tiên bị quét sạch rồi. Những gì anh thấy là
những người sống sót sau nỗ lực giải cứu thê đội thứ nhất, mà nỗ
lực này cũng thất bại nốt.’ Sau này, khi nghĩ lại tôi mới thấy là