chúng tôi với những con mắt tròn xoe. Hai con được nhốt riêng lồng
để ngăn không cho chúng đá nhau đến chết. Phạm Xuân Ẩn bắt đầu
nói chuyện với chúng bằng giọng nhẹ nhàng, nựng nịu. Ông đổ đầy
ngô vào một cái bát con và đặt nó trong chiếc lồng thứ nhất. Ông
cũng làm y như vậy với con gà thứ hai. Những động tác của ông rất
nhanh và dứt khoát. Tôi chợt nhớ đến sự so sánh mà ông đưa ra
giữa những con chim và các phóng viên. Ông cũng thường bón cho
các phóng viên với sự chăm chút và tỉ mỉ như thế, nhưng thức ăn
mà ông bón cho họ là thông tin.
Mười tháng sau chuyến đi của mình tới Côn Đảo, tôi kéo chuông
trên cánh cổng màu xanh nhà Phạm Xuân Ẩn cho chuyến thăm cuối
cùng của chúng tôi. Tôi đến lúc sáu rưỡi tối, thời điểm mà ông Ẩn
cho biết là ông thấy dễ thở hơn. Bà Thu Nhạn ra mở cửa. Khuôn mặt
tròn trịa, mọi khi vẫn bình thản như không của bà giờ đây nặng trĩu
âu lo. “Rất vui được gặp bà,” tôi chào. “Bà có khỏe không?”
“Không khỏe lắm,” bà nói, trong cái tối ẩm ướt này của tháng 1.
Bà tất tả đi qua vườn và xin cáo lui sau khi đã dẫn tôi vào phòng
khách. Căn phòng đã được kê dọn lại. Ở vị trí từng đặt chiếc bàn
làm việc của Phạm Xuân Ẩn trước kia, dưới cửa sổ bên phải cánh
cửa, là một chiếc giường bệnh viện và một chiếc xe đẩy. Phạm Xuân
Ẩn đang nằm nghiêng người nghỉ ngơi trên giường, một chiếc quạt
đang thổi vào ông. Da ông trong suốt đến nỗi tôi có thể nhìn thấy
máu đang chảy qua những huyết quản của ông. Tai ông nhô hẳn ra
khỏi hai bên hộp sọ. Yết hầu lên xuống khó nhọc khi ông há miệng
gắng thở. Bộ pyjama trắng lùng thùng quanh người khi ông ngồi
dậy và với tay lấy một tách trà sâm. Phạm Xuân Ẩn cho tôi biết là
ông đang dùng sừng tê giác để chữa căn bệnh khí thũng của mình.
Giờ ông không còn đùa bỡn về cái chết của mình nữa. Đôi mắt màu
nâu của ông trong veo và mở to. Cố gắng lấy hơi thở, ông nhăn mặt
lại vì đau đớn. Thu hết ý chí và năng lượng dự trữ vốn đã làm ông
trở nên nổi tiếng, ông bắt đầu nói, và hai tiếng đồng hồ sau đó ông
vẫn còn nói khi tôi nhất quyết xin phép ra về.