phần sau.
SẮP XẾP THÍ NGHIỆM rất đơn giản. Bốn trăm đối tượng được tuyển chọn kỹ
lưỡng sẽ đội một chiếc mũ quấn quanh đầu màu đen có dây gắn với một tá bản điện
cực trông giống như những vỉ nến tròn xếp cạnh nhau. Sau đó, các nhà nghiên cứu sẽ
điều chỉnh và cài chắc các cuộn dây xung quanh đầu các đối tượng, và chỉnh chang lại
lần cuối mọi thiết bị với sự tập trung cao độ. Trong bộ trang bị SST, những đối tượng
nghiên cứu của chúng tôi trông như những người ngoài trái đất đến từ vụ rơi của vật
thể bay không xác định (UFO) ở Roswell, bang New Mexico, trông họ có vẻ thành
kính, hoặc kiểu của một nhóm những người tham gia vào một cuộc lên đồng tập thể
vậy.
Nhưng chẳng có gì thuộc về thế giới khác hay thần bí trong nghiên cứu này cả, nó chỉ
là cuộc truy cập chưa từng thực hiện nhằm tìm hiểu sức mạnh (và điểm yếu) của
ngành công nghiệp quảng cáo truyền hình trị giá hàng tỷ đô-la. Những bản điện cực
được đặt ở những vị trí đặc biệt cách não bộ của các đối tượng thử nghiệm khoảng
chừng một đến vài mét, phía sau một tấm kính, ở đó, nhóm nghiên cứu có thể quan
sát – và tính toán – chính xác điều gì đang diễn ra trong não bộ của đối tượng trong
một khoảng thời gian xác định. So với những thiết bị khác, SST có thể đo được mức
độ cảm xúc đang được kích hoạt của đối tượng (họ có thấy hào hứng với những gì họ
đang xem hay không), trí nhớ (những phần nào trong số những thứ họ xem sẽ được
ghi vào bộ nhớ dài hạn của họ), cũng như sự tiếp cận và từ chối (hình ảnh trực quan
nào khiến họ bị thu hút, và khiến họ muốn khước từ). Hoặc theo cách diễn đạt của
Giáo sư Silberstein, người đứng đầu nhóm nghiên cứu, SST có thể khám phá “những
khu vực khác nhau của bộ não giao tiếp với nhau như thế nào.”
Các đối tượng thử nghiệm ngồi đó, trong một căn phòng tối, và bức màn bí ẩn dần
được hé mở.
QUẢNG CÁO TRÊN phim ảnh cũng có lịch sử lâu đời như chính phương tiện
truyền thông này vậy. Ngay từ thời của anh em nhà Lumière, hai nhà sản xuất phim
đầu tiên trên thế giới này cũng đã cài cắm vài hình ảnh của xà phòng tắm Sunlight của