đêm qua. Cảnh tượng đó làm tôi ghê sợ hơn là thương cảm, tuy vậy tôi
không nỡ bỏ chàng ở đó mà đi. Nhung khi chàng đã bình tĩnh lại một chút,
nhận ra tôi đương ngó mình thì chàng quát lên đuổi tôi đi. Tôi nghe lời
ngay. Tôi đâu đủ tài để an ủi dỗ dành chàng!
Lễ an táng mợ Kha được trù liệu vào ngày thứ Sáu sau; cho đến hôm đó
trong phòng khách lớn linh cữu của nàng được để ngỏ, rắc đầy hoa và lá
thơm. Cậu Kha ở luôn đó canh giữ ngày đêm không ngủ và - điều này chỉ
riêng tôi biết - ở bên ngoài Hy cũng không ngủ như Kha, đêm nọ qua đêm
kia.
Tôi không liên lạc gì với Hy nhưng tôi linh cảm thế nào chàng cũng chờ
dịp lẻn vào phòng người chết. Đến ngày thứ ba, lúc chạng vạng tối, chủ tôi
vì quá mệt buộc phải đi ngủ mấy tiếng đồng hồ. Thấy Hy có lòng thành, tôi
cũng động lòng mở một cửa sổ ra để chàng có dịp nhìn một lần cuối cùng
hình ảnh héo hon của người mà chàng tôn thờ.
Hy đã không bỏ lỡ cơ hội, chàng lẻn vào nhanh gọn và thận trọng, quá thận
trọng là đằng khác, vì chàng giữ không gây một tiếng động nhỏ; đến ngay
cả chính tôi cũng không hay biết nữa nếu tôi không để ý thấy tấm vải phủ
mặt người chết xô lệch và trên sàn có một lọn tóc vàng buộc bằng chỉ bạc.
Xem kỹ tôi mới biết đó là lọn tóc đựng trong cái hộp khung ảnh nhỏ Liên
đã đeo ở cổ. Hy đã mở cái khung, bỏ tóc ở trong ra và thay vào đó một lọn
tóc đen của chàng. Tôi cuốn cả hai lọn tóc lại với nhau và bỏ cả vào khung
đóng lại.
Cô Sa không được mời tới dự đám tang, còn cậu Hạnh cố nhiên được mời,
nhưng cậu chẳng trả lời, cũng chẳng thấy đến. Thành thử ngoài chồng
người xấu số ra, chỉ toàn là tá điền và tôi tớ.
Người trong làng ai cũng lấy làm lạ không hiểu sao Liên không được chôn
cất trong nhà thờ nhỏ, dưới tấm bia có trạm khắc của gia đình họ Tôn, mà
cũng không gần nơi phần mộ những người bên họ nàng. Huyệt được đào
lên từ một cái gò cỏ xanh ở một góc nghĩa trang mà bờ tường thấp đến nỗi
cây thạch thảo mọc từ bên ngoài đồng hoang leo qua được vào tận bên
trong.
Bây giờ chồng nàng cũng nằm đấy. Trên đầu mỗi ngôi mộ có một tấm bia