rồi chiều đến kể không biết bao nhiêu chuyện vẩn vơ hão huyền. Tôi không
sợ Liên “phá rào” ra khỏi trại vì cổng ngõ đều khóa chặt, vả tôi tin rằng cho
dẫu cổng ngõ có mở toang ra, Liên cũng không dám “đơn thương độc mã”
mạo hiểm đi xa một mình.
Thật không may, lòng tin của tôi đặt không đúng chỗ. Một bữa, mới tám
giờ sáng, Liên đã tìm tôi nói là hôm ấy có một nhà buôn Ả-Rập sắp đưa
một đoàn xe hàng qua sa mạc và tôi phải cung cấp nhiều thực phẩm cho
Liên và đàn tùy tùng gồm một con ngựa và ba con chó săn đóng giả làm ba
con lạc đà.
Tôi sắp một giỏ đầy thức ăn ngon đeo vào một bên ngựa. Liên mừng nhẩy
lên vui như tiên, mặt ẩn trong chiếc mũ rộng vành và tấm mạng tơ mỏng
che nắng tháng bẩy, vừa cười khanh khách vừa thúc ngựa đi, giả đò như
không nghe thấy lời tôi căn dặn đừng phóng ngựa nhanh và nhớ về sớm.
Đến bữa trà rồi mà không thấy mặt cô bé nghịch ngợm đâu, chỉ có mỗi con
chó săn già là trở về, còn Liên cùng con ngựa và hai con chó kia thì không
thấy tăm đâu. Tôi cắt người đi tìm hết đường này đường nọ và sau cùng tôi
phải đi kiếm lấy.
Thấy một chú thợ đang làm việc ở hàng rào một nông trại, tôi đến hỏi xem
có thấy cô bé đâu không, chú ta đáp:
“Sáng nay tôi có thấy cô ấy. Cô ấy bảo tôi chặt dùm một cái roi rồi thúc
ngựa nhẩy qua hàng rào ở đằng kia, chỗ thấp nhất, phóng đi mất hút.
Ông có thể tưởng tượng được không, nghe tin ấy tôi không còn hồn vía nào
nữa vì biết ngay là Liên đã đi Băng Thạch Nham. Tôi la hoảng lên: “Chết
tôi rồi!” rồi vội chui qua lỗ rào hổng chú thợ đương sửa và đi thẳng tuốt lên
đường núi. Tôi đi như chạy, hết cây số này đến cây số khác, cho đến một
khúc rẽ có thể nhìn thấy Đỉnh Gió-Hú nhưng vẫn không thấy tăm hơi cô bé
đâu cả.
Băng Thạch Nham nằm cách trại ông Hy khoảng hơn hai cây số và cách
Họa Mi Trang hơn sáu cây, nên tôi bắt đầu lo đêm xuống rồi mà tôi chưa
tới nơi.
Tôi nghĩ dại nếu bé Liên trượt chân lăn xuống chết hay gẫy vài cái xương
thì sao đây? Điều lo ngại này khiến tôi khổ sở hết sức. Khi tôi chạy vội tới