nào vẫn tật ấy. Rồi cũng ma dẫn lối quỷ đưa đường như bà nhà khi xưa.”
Trong một lúc, tôi đã tưởng những lời hùng hồn ấy nói về tôi. Khá tức tôi
định tống cổ bác ra ngoài, nhưng lời nói của cô nàng dâu hãm tôi lại:
“Bác nói quỷ đưa đường mà bác không sợ quỷ nó đưa bác đi à? Này, tôi
bảo cho bác biết.”
Nàng lấy xuống một cuốn sách bìa đen:
“Tôi đã biết nhiều trò phù thủy. Bác cút đi ngay lập tức kẻo nguy đến tính
mạng. Ai đi quá sẽ bị tôi trừng phạt... trừng phạt gì tôi không nói ra vội...
nhưng rồi bác xem. Bác coi chừng đó.”
Cô phù thủy vờ lộ một vẻ quái ác trong hai con mắt đen và bác Dọi sợ hãi
một cách thành thực vừa chạy đi vừa cầu kinh. Tôi cho là nàng vừa đùa
nghịch quái ác chơi; bây giờ chỉ còn lại hai người. Tôi nghiêm trang nói với
nàng về hiện tình khó xử của tôi.
“Thưa cô, tôi xin lỗi cô. Tôi không sợ đường đột vì trông cô tôi biết chắc cô
là người rất tử tế, xin cô chỉ lối cho tôi tìm được đường về tới nhà. Tôi đi ở
vùng này chắc cũng khó khăn như nếu cô phải tìm đường đi Luân Đôn.”
Nàng ngồi xuống ghế bên một cây nến thắp sáng và một cuốn sách mở để
trước mặt:
“Ông đến do đường nào thì ông cứ lối ấy đi về. Lời chỉ bảo tuy vắn tắt
nhưng hay nhất.”
“Thưa cô, nếu vậy khi nghe người ta tìm thấy tôi chết cứng trong một cái
lạch, thì lương tâm cô liệu có bị ray rứt vì cô mà tôi chết không?”
“Tại sao? Tôi không thể đi cùng ông được. Họ không cho tôi đi xa hơn cái
góc tường ở ngoài vườn kia.”
“Cô à! Có đời nào tôi dám nhờ cô đi ra khỏi cái nhà này trong một đêm như
đêm nay chỉ để tiện việc cho tôi. Tôi chỉ nhờ cô chỉ cách thức đi, hoặc bảo
ông Hy cho tôi một người dẫn đường.”
“Sao được! Nhà chỉ có ông Hy, Yên Hạ, bác Dọi, chị Dị và tôi. Ông muốn
ai dẫn?”
“Không có thằng nhỏ giúp việc nào sao?”
“Không, không còn ai nữa.”
“Vậy thì bắt buộc tôi phải ở lại.”