tươi mát hiếm hoi của miền Tây Bắc. Những chiếc bàn tròn, ghế sắt, sơn
màu xanh mạ, màu Starbucks của những vòng tròn xanh trên cốc giấy cà
phê, trên tạp dề những cô con gái tóc vàng đứng sau quầy.
Tôi cúi xuống cầm tập bản thảo. Tôi đã giữ tập bản thảo này từ hồi nào
nhỉ? Không nhớ. Một quyển tập bìa cứng, khổ lớn, 20x27cm, gồm 200
trang giấy ca-rô, trang đầu ông cụ viết nắn nót bằng màu mực xanh lá cây.
EMILY BRONTE
MỎM GIÓ HÚ
NHẤT LINH dịch
PHƯỢNG GIANG
1952
Chữ MỎM xóa đi bằng bút chì, thay bằng chữ ĐỈNH, viết bằng mực đen,
ngay phía trên. Lật sang trang ba tôi dò đọc những hàng chữ rất nhỏ của
ông cụ và bắt đầu đánh máy:
“Năm 1801 - Tôi vừa đi thăm ông chủ nhà về. Vùng này đối với tôi
thực là tuyệt, có lẽ trong toàn cõi nước Anh tôi không thể tìm được
một nơi nào xa cách sự huyên náo như ở đây. Thật là cõi thiên đường
của những kẻ chán đời: Ông Hy đối với tôi là hai người hoàn toàn hợp
với vùng hiu quạnh. Ông Hy chắc không ngờ tôi có thiện cảm với ông
ngay, mặc dầu lúc tôi cho ngựa tiến lên, hai con mắt đen của ông sâu
hoắm nhìn tôi một cách nghi hoặc và lúc tôi xưng danh, các ngón tay
của ông lại thọc sâu một cách rất quả quyết vào túi áo.
Tôi hỏi: ‘Thưa ông, ông có phải là ông Hy
Ông ấy chỉ gật đầu, không trả lời.”
Tôi ngừng tay trên phím chữ. Ông cụ viết bằng mực xanh, những chỗ sửa