không biết triết Tây là chịu khoanh tay. Vậy nên đừng có hỏi phải học triết
nào như là có thể chọn một, bỏ một, vì trong hiện tại ta cần cả hai.
Đó là một hai lý luận chứng minh sự cần thiết phải học triết Tây. Lý do thứ
ba thuộc khu vực văn hóa và nó thật cho bất cứ nền văn hóa nào,vì có thể
nói là thuộc không gian. Còn lý do thứ bốn thuộc thời gian: trong hoàn
cảnh này, ở thời đại lịch sử hiện nay. Cả hai thuộc hoàn cảnh bên ngoài để
hợp với hai lý do trên thuộc tính chất nội tại, tất cả hợp lực chứng minh sự
cần thiết của triết học Tây phương trong giai đoạn hiện tại nước nhà.
Lý do thứ hai là để chứng minh sự cần thiết của triết Tây thuộc về loại nào:
có phải là cần thiết loại độc chiếm hay là cần thiết loại bổ túc. Cho đến nay
người mình thường nghiêng về ý kiến độc chiếm, vì khi nhìn vào triết Tây
Âu kể từ Platon, Aristote, qua Descartes, Kant, Hegel rồi đến các triết gia
hiện đại: sách vở rất phong phú với những hệ thống nguy nga đồ sộ chương
trình đã đâu ra đấy. Đang khi đó xem lại mình mới được dăm ba quyển với
nội dung nghèo nàn, xếp đặt luộm thuộm thiếu hệ thống, gọi là đạo học,
luận lý hay văn học thì được, chứ nói là triết lý thì không. Cho nên những
người đưa triết Tây vào chương trình tuyệt nhiên không hề có ý nghĩ nào
đẩy triết Đông ra ngoài, nhưng chỉ cốt để thêm vào cho di sản nước nhà
một môn học mới mà trước đây chưa hề có và do đó là độc chiếm mà
không nghĩ là độc chiếm, nghĩa là với họ triết Đông đã có đâu để mà có thể
bị chiếm đoạt.
Vì tâm trạng vô tội của thế hệ hiện đại là thế (cho tới năm 1956) và vì sự
kiện độc chiếm của triết Tây trong chương trình giáo dục nuớc nhà (cho tới
nay 1968 còn thật cho trung học). Vì thế chúng ta cần đem vấn đề lên bàn
mổ để trong việc rất hệ trọng là vấn đề giáo dục của một nước tránh được
những lầm lẫn có hại sâu xa cho tiền đồ tổ quốc. Trước hết chúng ta chủ
trương rằng không nên để triết Tây độc chiếm như nay vì triết Tây tuy nguy
nga đồ sộ nhưng chưa đáp ứng được tiêu chuẩn đã định luận ở bài đầu tức
là học hành, ít ra cho chúng ta, bởi mỗi dân tộc có một lối suy tư riêng, một
lối cảm nghĩ sinh sống khác nhau, mang theo một sắc thái đặc thù mà một
nền triết trung thực không thể bỏ qua, ít ra ở khởi điểm, để làm những nấc
thang tâm linh hầu đi lên đến con người phổ biến muôn thưở, nghĩa là